Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014
Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014
Giải mã Thất Sơn (Kỳ 2)
Giải mã Thất Sơn được đăng thành 3 kỳ. |
Giải mã Thất Sơn (Kỳ 2)
|
Copy từ http://www.congan.com.vn/?mod=detnews&catid=702&id=512897, đăng ngày27/02/14; mục Phóng sự điều tra. |
Thành trì quật khởi trên đỉnh núi
|
Sát biên giới Campuchia còn có ba dãy núi nằm trong Thất Sơn thuộc huyện Tri Tôn là núi Dài, núi Nước và núi Tô. Trên mảnh đất hồi sinh này, những cánh đồng lúa xanh mơn mởn, những trường học ê a tiếng học trò đang khép lại một quá khứ với nhiều nỗi đau. |
Núi Dài có tên là Ngọa Long Sơn, dài nhất trong Thất Sơn, 8km. Vì có địa hình hiểm trở và dốc nên ngọn núi này xưa kia từng là căn cứ bí mật của quân và dân An Giang trong những năm kháng chiến. Ngày nay, Ngọa Long Sơn vẫn lưu giữ những vết tích của chiến tranh xưa. Du khách đến tham quan có thể ghé thăm ô Tà Sóc (suối ông Sóc) nằm trên điểm cao của núi Dài thuộc ấp An Ninh, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, cách thị trấn Tri Tôn 11km. Đây là một vùng sơn lâm hiểm trở, từ năm 1962 đến 1967 là căn cứ của Tỉnh ủy An Giang và nhiều cơ quan trực thuộc. Ngoài Điện Trời Gầm, nơi đặt cơ quan tỉnh ủy, còn có Điện Huỳnh Liên, Vồ Cò, Vồ Cỏ Xã... là những cứ điểm quan trọng. Đặc biệt trên đồi Ma Thiên Lãnh có hang rộng chứa hàng nghìn người. Từ căn cứ địa này, Tỉnh ủy An Giang đã chỉ đạo quân và dân đánh đuổi nhiều nhóm thổ phỉ và nhiều lần kháng lại các cuộc càn quét của quân đội Mỹ, quân đội Việt Nam cộng hòa... |
Theo lời kể, năm 1969 một tiểu đội tiền tiêu của Đoàn 61 chủ lực Miền bị máy bay địch ném bom sập miệng hang. Bảy chiến sĩ kẹt lại bên trong, lúc đầu đơn vị tiếp lương thực bằng cách dùng ống tre đưa sữa, cháo loãng... Mấy ngày sau, vì địch càn quét liên tục, đơn vị đành phải bỏ lại đồng đội để rút về rừng U Minh. |
Khu du lịch của ông Sơn
|
Qua những thăng trầm, núi vẫn âm u rậm rạp, chỉ có những lối mòn mà đồng bào tìm lên hái thuốc hay bắt bò cạp bán cho người Kinh ngâm rượu, nhiều nhất chợ Tịnh Biên (An Giang). Chỉ cách biên giới nước bạn một cây cầu sắt, bà con hai nước thông thương qua lại và món bò cạp bắt từ núi Dài nổi tiếng khắp vùng. Núi có nhiều cây thuốc trị bệnh, thưa vắng người ở nên thú dữ còn nhiều. |
Núi Dài đi qua các xã Châu Lăng, Lương Phi, Ba Chúc, Lê Trì thuộc huyện Tri Tôn. Từ huyện Tịnh Biên đi về phía huyện Tri Tôn, dọc đường chúng tôi trông thấy cảnh người dân mạ lúa dưới bóng mát của những cây thốt nốt. Xa xa là núi Dài chạy tít tắp đường chân trời như một bức tường thành kéo dài không có điểm dừng. |
Tài nguyên ở núi Dài gồm: đá xây dựng, cát núi, đất sét cao-lanh (dùng làm sứ cách điện cao cấp) và nước khoáng thiên nhiên. Đặc biệt, diatomite được phát hiện ở xã Lê Trì, nằm cách mặt đất từ 1,8 - 2,2m. Bề dày khoảng 1,7 - 2m, trữ lượng dự báo từ 800.000 - 1.000.000 tấn. Các loại diatomite có ở đây đều lẫn sắt hoặc chất hữu cơ rất cao nên thường có màu xám đen hoặc vàng. Diatomite núi Dài có thể sử dụng rộng rãi trong công nghiệp lọc hoạt tính, đặc biệt lọc bia, rượu, dầu ăn. Đất sét bentonite cũng được tìm thấy tại xã này với trữ lượng khá lớn. Đây là một loại đất chứa nhiều khoáng montmorillonite. Nguyên liệu này rất thông dụng trong công nghiệp, đặc biệt dùng làm chất tẩy rửa dầu nhớt, hút nhờn và làm dung dịch trong các giếng khoan dầu nhớt. |
Nằm gần núi Dài là núi Cô Tô, gọi tắt là núi Tô (Phụng Hoàng Sơn, thuộc xã Cô Tô, huyện Tri Tôn) cao 614m, dài 5.800m. Đây là một vùng bán sơn địa và do cấu tạo địa chất đặc biệt, nhiều nơi bên trong núi là một hệ thống hang động ngầm như tổ ong vĩ đại, rất kiên cố. Khu vực núi Tô có nhiều điểm tham quan và nổi bật là đồi Tức Dụp, có nghĩa nước quanh năm. Đồi nằm ở sườn phía tây núi Cô Tô, cách thị trấn Tri Tôn khoảng 18km. Trước năm 1975, ngọn đồi được báo chí gọi là ngọn đồi “Hai triệu đôla” do số bom đạn của Mỹ dội xuống đây được tính ra đồng đôla Mỹ. Đây là căn cứ địa dùng để chống Mỹ của một số quân và dân tỉnh An Giang. Nhờ nơi này trập trùng đá với những lối đi quanh co lúc rộng lúc hẹp, lúc cheo leo và bên trong là những hang động rộng lớn mà khi xưa được dùng làm hang Tuyên huấn của Tỉnh ủy An Giang, kho vũ khí, nơi ăn ở, trạm xá và hội trường có sức chứa khoảng 150 người. |
Núi Dài
|
Nằm ở sườn phía đông núi Cô Tô là một hồ nước có vẻ đẹp hoang sơ, nước hồ luôn xanh biếc và phẳng lặng. Hồ rộng chừng 5 héc-ta, có dung tích khoảng 400.000m³ được đào trong những năm 1986 - 1994, để sử dụng tưới tiêu cho hàng trăm héc-ta ruộng rẫy và cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong vùng. Tính đến năm 2009, đây là hồ nhân tạo lớn nhất của tỉnh An Giang. Một số điểm trên núi đáng tham quan khác là Mũi Tàu, Mũi Hải, Vồ Hội lớn, Vồ Hội nhỏ, suối Cây Giông, Pháo đài và Bàn chân tiên. |
Trong mường tượng của chúng tôi, núi Nước chắc cũng cao như các ngọn núi khác nhưng thật ra không phải. Nó chỉ là ngọn đồi, nằm khuất sau cổng một ngôi chùa. Từ Tỉnh lộ 955B rẽ vào khoảng 600m, ngọn núi này nằm cạnh một khu dân cư. Núi Nước (Thủy Đài Sơn) là ngọn núi nhỏ nhất của dãy Thất Sơn, cao 54m, chu vi 1.070m, nằm giữa những cánh đồng rộng lớn. Mặc dù vùng này có nhiều ngọn núi cao hơn (như núi Trà Sư, Ba Thê...) nhưng núi Nước được liệt vào hàng bảy núi có thể do sự tác động bởi những quan niệm thần bí, siêu nhiên trong dân gian... |
Ông Ba Lợi cho biết khi chưa có đê bao chống lũ, vào mùa nước nổi (khoảng tháng 7 đến cuối tháng 10 âm lịch), xung quanh núi là một biển nước mênh mông. Vì lẽ đó, núi có tên là núi Nước. |
Ông Nguyễn Văn Tọt (bìa trái) kể về núi Dài Năm Giếng
|
Ngay chân núi có chùa Linh Bửu do Ngô Lợi (giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa) cho xây dựng vào ngày 9-6-1884 (Giáp Thân). Tương truyền, trên đỉnh núi thuở xưa ai đó đã chôn sâu một trụ đá khắc chữ Hán, cốt để trấn yểm long mạch, nhưng sau này bị giáo chủ Ngô Lợi cho đào lên phá hủy. Tuy nhỏ và dáng dấp như một hòn non bộ lớn nhưng núi cũng có ít cây cổ thụ, một ít hang động nhỏ. |
Ngày nay, trong thiền tự, núi Nước được minh chứng là một khối đá hình chữ nhật được thờ tự. Bên ngoài có một khối sắt bảo vệ. Núi không cao, nằm trơ trọi giữa tứ bề ruộng lúa, khuất sau những vạt tràm, bên kia là Campuchia. Ngọn núi này có khối đá hình dấu chân được truyền là chân tiên. Nếu như núi Cấm cao nhất trong dãy Thất Sơn thì núi Nước là nhỏ nhất. |
Lên núi làm giàu
|
Nằm ở phía đông thị trấn Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên, cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 70km về hướng tây theo Quốc lộ 91, rẽ qua Tỉnh lộ 948 sẽ gặp hai ngọn núi nằm đối diện nhau là núi Két và núi Dài Năm Giếng. Núi được bao bọc bởi những ngọn khác như núi Đất, núi Trà Sư, núi Bà Đắc. |
Được gọi là núi Két vì ở độ cao khoảng 100m tính từ chân núi, bên vách phía tây gần trên đỉnh có một tảng đá khổng lồ nằm nhô ra, theo sự mường tượng của nhiều người nó gần giống mỏ chim két (tức chim anh vũ). |
Đường lên đỉnh núi Két dài khoảng 600m, được xây bậc thang và đều có hành lang an toàn. Đi dần lên núi có các địa điểm đáng tham quan như: Sân Tiên, Giếng Tiên, Điện Chư Thần, Điện Phật Thầy, Điện Phật Mẫu, Điện Ngọc Hoàng, Điện Huỳnh Long, Điện Ba Cô, Điện U Minh, Điện Chư Vị Năm Non Bảy Núi và tiêu biểu nhất là mõm ông Két cùng với nhiều truyền thuyết dân gian. Gần chân núi có ba di tích rất được nhiều người đến thăm viếng và chiêm bái hơn cả đó là đình Thới Sơn, chùa Thới Sơn, chùa Phước Điền, vì đều gắn liền với thời lưu dân đi mở đất và với giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. |
Trên đỉnh núi Dài Năm Giếng
|
Ở độ cao 100m là mõm ông Két, mặc dù vách đá cheo leo nhưng chủ nhân đã cho xây dựng một sân rộng vừa ngắm cảnh vừa làm điểm dừng chân. Sau lưng mõm ông Két là điện thờ Chư Vị Năm Non Bảy Núi, những người có công khai khẩn vùng Thất Sơn, riêng Năm Non là cụm từ chỉ địa danh năm “chỏm” cao gọi là “vồ” gồm: vồ Bồ Hong, vồ Bướm, vồ Đầu, vồ Bà, vồ Tiên Tuế. Bên ngoài điện có hai câu: “Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi (tả)/ Miền Bảy núi mà sau báu quý (hữu)”. Tiếp tục lội lên Bãi Sân Tiên (mỏm núi) phải mất một giờ mới đến nơi, được xem nhiều hạng mục xây dựng. Nơi đây không khí lạnh như Đà Lạt, gió lồng lộng mát rượi xua đi cơn mệt mỏi. Núi Két bây giờ đã hình thành một khu du lịch tâm linh do tư nhân xây dựng. Người ta ví von rằng vợ chồng ông Nguyễn Văn Sơn (61 tuổi) - Nguyễn Thị Hòa Liên (63 tuổi) là chủ núi ở đây. |
Sinh ra ở huyện Châu Phú (An Giang), ông Sơn từng lên Sài Gòn bôn ba tìm việc. 19 tuổi, ông lui về đây tìm kế sinh nhai. Lúc đầu, ông làm nghề gánh đào (điều lộn hột) thuê cho các nương rẫy nên mới có biệt danh Sơn “đào”. Làm lụng tích lũy mãi ông mới có một ít tiền để mua bán đào rồi mua củi khô của các chủ vườn đào bỏ đi để mang xuống núi kiếm lời. Qua vài năm, ông cũng có số dư ngon lành. Thấy các chủ nương rẫy bán đất rẻ, ông lấy tiền tiết kiệm mua hết. Chẳng mấy chốc ông đã có trong tay 20 héc-ta đất núi và quyết định làm khu du lịch. |
Như con dã tràng, vợ chồng ông lúc đầu phải lấy công làm lời để cải tạo lối mòn, phát từng bụi rậm làm đường đi cho du khách. Một khối cát dưới núi chỉ có giá 300 nghìn đồng nhưng thuê nhân công cõng lên đỉnh núi trả giá một triệu đồng. Trời không phụ lòng người, khách đến đây chiêm bái ngày một đông. Từ tiền lời bán vé (8.000 đồng/vé), ông đưa điện và nước lên núi để phục vụ du khách. Du khách có thể nằm võng hoặc ngủ lại trên núi đều được phục vụ tận tình. Ông Sơn bảo: “Nơi đây có rất nhiều điều linh thiêng, làm du lịch văn hóa gắn với tâm linh nhất định sẽ thành công. Không có đường đi sẵn mà đi mãi sẽ thành đường”. Nghĩ vậy nên suốt ngày ông cùng gia đình chăm lo cho từng hạng mục để thu hút khách phương xa. Nhìn cách làm du lịch rất tinh tế của ông Sơn, chúng tôi liên tưởng đến ông già Mà Giá ở huyện Khánh Vĩnh (Khánh Hòa) cũng rất sáng tạo khi làm một khu du lịch trên con đường nối hoa và biển. |
Đối diện núi Két trên con đường dẫn về biên giới là núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn), còn được gọi là núi Dài Nhỏ. Đây là ngọn núi cao thứ tư trong Bảy Núi thuộc tỉnh An Giang. Núi cao 265m, chu vi 8.751m thuộc thị trấn Nhà Bàng, riêng vách phía tây và đông thuộc địa phận xã An Phú, xã Văn Giáo (Tịnh Biên). Sở dĩ có tên núi Dài Năm Giếng vì trên núi có năm nơi mặt đất trũng sâu như giếng nước. “Giếng tiên” này giống ở đỉnh núi Ba Thê (huyện Thoại Sơn, An Giang) nằm ở hướng ngược lại. Núi tuy hiểm trở nhưng có nhiều cảnh đẹp, nhiều vườn cây trĩu trái quanh năm như ổi, xoài, bưởi, mận, sầu riêng, thanh long... cho nên có người mô tả “nhìn theo hướng mỏ Két của núi Két, phía trước mặt là dãy Ngũ Hồ Sơn, có thể ví như một hòn non bộ khổng lồ tuyệt đẹp”. Ngoài ra, nơi đây còn có nguồn tài nguyên là đá xây dựng thuộc nhóm sáng màu mịn hạt và đá ốp lát dùng để trang trí. |
Muốn lên đỉnh núi, chúng tôi phải chạy xe máy cả chục kilômét xuyên qua những đường mòn độc đạo được cổ thụ che mát, không có nắng lọt qua giống như đi trong... đường hầm. |
Dừng chân ở đỉnh núi, chúng tôi gặp ông Nguyễn Văn Tọt (55 tuổi), trước đây là dân phường Phú Hiệp, TP.Châu Đốc nay vào làm rẫy, trồng xoài. “Hồi xưa vua Gia Long vào đây ở, cắm gươm vào đất tạo thành năm giếng. Từ nhỏ, tôi đã được cha mẹ kể như vậy đó” - ông Tọt nói. Đi tiếp một đoạn là một xóm du mục với những căn nhà rách nát, trống trước dột sau. Họ lên đỉnh núi sống để làm nghề nương rẫy và chăn nuôi heo, gà. Chủ nhân ngôi nhà đầu tiên là chị Nguyễn Thị Hậu (29 tuổi). Chị có hai con đang học lớp 2 và 5, Trường THCS Nhà Bàng dưới chân núi. Chồng chị - anh Nguyễn Văn Hoài làm nghề đốn củi. Chị giới thiệu: “Tui phụ chồng làm nghề bán củi. Mang củi từ đây xuống lộ (đường) bán được 90 nghìn đồng một mét để bỏ mối cho lò bánh. Dân ở đây xài nước giếng đào, mùa hạn thì chở nước nhà lên. Sống trên đây để mần đất rẫy, đất của nhà mà!”. |
Cạnh chòi chị Hậu là chòi của bà Phan Thị Duyên (55 tuổi), chồng là Võ Văn Phúc (60 tuổi). Họ có một đứa con gái tên Võ Thị Hồng Điệp, được gả chồng từ năm 19 tuổi. Nhà họ trước đây gần chợ Nhà Bàng nhưng vài năm qua, khi cuộc sống túng thiếu đã chuyển lên núi làm nương rẫy. |
Ông Phan Văn Quang (55 tuổi) và vợ Nguyễn Thị Khánh (53 tuổi) có năm đứa con, nhà gần chợ Nhà Bàng nhưng hơn 20 năm qua đã lên núi làm nương rẫy. Cùng đi với ông là cậu em trai Phan Văn Tiếp. Ông Quang nói rằng, hằng năm cứ đến ngày 12-8 là ngày viếng Phật thầy Tây An hay rằm tháng 7, tháng 10 thì dòng người hành hương lên núi rất đông, chứ ngày thường vắng lắm. Ngoài đường này, muốn lên đỉnh núi còn có đường đi từ nghĩa trang Tịnh Biên. Mùa mưa ở đây có nước, phải dự trữ nước mưa xài dần. Mùa mưa từ tháng 12 đến Tết Nguyên đán. 17 tuổi, ông Quang đi bộ đội ở huyện đội, làm vệ binh từ năm 1975 đến 1978. Ông từng chốt cặp (sát) biên giới xã Lạc Quới, huyện Tri Tôn. Hiện ông cùng cậu em trai lấy đá núi để xây nhà tạm, trông giữ vườn vú sữa, xoài. |
Gởi xe máy ở chòi ông Quang, chúng tôi phải leo dốc để lên đỉnh. Vượt qua những nương rẫy đang mùa xanh lá, lội bộ cả cây số, chúng tôi lên tới đỉnh núi. Từ đây nhìn ra xa là con kênh Vĩnh Tế nối ra biển Đông mang tên phu nhân của tướng quân Thoại Ngọc Hầu. Trên bát ngát gió trời là một ngôi miếu và năm giếng nước được hình thành từ đá núi. Người địa phương nói rằng, nơi này rất linh thiêng và kỳ bí là vì vậy. |
(Còn tiếp) - Xem tiếp kỳ (3)tại đây. |
AN HÒA - HẢI VĂN |
Quý hơn vàng!
Nói hay đừng: |
Copy từ http://laodong.com.vn/noi-hay-dung/quy-hon-vang-182833.bld , đăng ngày 27/02/14; mục Nói hay đừng. |
- Theo bác, có lệnh cấm cán bộ công chức, viên chức (CBCCVC) uống bia rượu trong giờ làm việc và giờ nghỉ ăn trưa không? |
- Bảo có thì có, nói không là không. |
- Nói kiểu gì vậy? |
- Kiểu nó thế. Đã có một số tỉnh ở miền núi, miền Nam có lệnh cấm, vì thực tình tớ đã nhiều năm đi “thực địa” ở các vùng này nên hiểu vấn đề. Người dân làm ăn quanh năm suốt tháng, còn CBCCVC cũng xin nói thực tình là ít việc, không đông người dân hay các cơ quan, đơn vị đến giải quyết nhiều như các tỉnh miền xuôi và các tỉnh lớn. Vì thế, nên CBCCVC không phải là “vác ô”, nhưng có nhiều thời gian để càphê, cầu lông và “giao lưu” (nhậu). Uống nhiều thành quen, uống quen thành nghiền, nghiền lâu thành nát. Vì thế những nơi “nát” buộc phải cấm. |
- Hôm 25.2.2014, trong cuộc họp về ATGT, bác Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có ý kiến UBATGT Quốc gia cần phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng và ban hành quy định toàn quốc không bia rượu trong giờ hành chính. |
- Như thế là “nát rượu” rồi? |
- Không ai nói thế, nhưng tình hình TNGT cho thấy có “một bộ phận không nhỏ” tài xế say rượu khi lái xe. |
- Còn nghiện ma túy cũng vẫn được lái nữa thì sao? |
- Hôm nay không bàn ma túy, nói bia rượu thôi. |
- Bia rượu nói mãi nghe chán cả tai. 3 tỉ lít bia, nhiều triệu lít rượu, 5 triệu con chó, hàng chục nghìn lít cồn đánh vécni mang về pha thành rượu Hà Nội 29, uống vào đi luôn… |
- Đấy là việc của cả nước, toàn dân. Ta đang nói cấm CBCCVC uống rượu trong giờ hành chính. Mỗi ngày có 24 giờ, cấm được 8 giờ (vàng ngọc) là quý lắm rồi. |
- Thế hóa ra với CBCCVC chúng ta vàng ngọc cũng không là gì, một khi đã đến điểm hẹn “giao lưu”, hoặc nói như anh em văn nghệ sĩ và cán bộ Hà Nội là “ta ngồi với nhau”. Rượu quý hơn vàng. |
- Tất nhiên không ai mang rượu đổi lấy vàng, nhưng có vàng, có ngọc thì ta lại “ngồi với nhau”. |
- Tớ nghĩ có khi phải có một đạo luật thay cho việc chỉ đánh thuế. Rượu lậu thì thuế nào đánh được. Nhà em nấu chủ yếu để lấy bã phục vụ chăn nuôi. |
- Luật thì lúc nào, lĩnh vực nào cũng cần, nhưng bác xem có luật nào ai cũng phải chấp hành nghiêm chỉnh 100% không? Tình trạng lách luật, trái luật, bất chấp luật pháp tràn lan thì sao? |
Lý Sinh Sự |
Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014
Hoa vông vang
Đi tới định mệnh với ‘Những cây cầu ở quận Madison’
Những Cây Cầu Ở Quận Madison - Chương 09
Những Cây Cầu Ở Quận Madison |
Robert James Waller |
Chương 09 |
Copy từ http://4phuong.net/ebook/76069667/432503612/chuong-09.html ; |
* * *
|
Con ó đêm ở Tacoma |
Trong thời gian tôi viết về câu chuyện của Robert Kincaid và Francesca Johnson, tôi càng muốn tìm hiểu chi tiết về cuộc đời của Kincaid thì tôi càng ít biết về ông và cuộc sống của ông. |
Chỉ một vài tuần trước khi cuốn sách này được in ra, tôi đáp máy bay đi Seattle. Một lần nữa, tôi cố gắng tìm những thông tin bổ túc về Robert Kincaid. |
Ý tưởng này chợt đến với tôi khi tôi nghĩ rằng là một người yêu nhạc và bản thân ông ta cũng là một người chơi ghi-ta, Robert Kincaid hẳn phải quen biết với một ai đó trong giới âm nhạc và nghệ sĩ ở Puget Soud. Người có trách nhiệm ở Tiểu ban Nghệ thuật và Sân khấu của tờ Seattle Times đã giúp tôi nhiều. Ông ta chưa hề nghe nói về Robert Kincaid, nhưng ông để cho tôi tham khảo tất cả danh mục của tờ báo từ năm 1975 đến 1982, giai đoạn mà tôi quan tâm. |
Khi lật qua những số in vào năm 1980, tôi gặp một bức hình chụp một người da đen chơi nhạc nhạc Jazz, một tay thổi saxo có biệt danh là John ”Ó đêm“ Cummings và bức ảnh ký tên Robert Kincaid. Nghiệp đoàn nhạc công địa phương đưa tôi địa chỉ của Cummings, cũng cho tôi biết thêm là ông ta không còn chơi nhạc với tư cách chuyên nghiệp nữa đã năm năm nay. Ông ta ở một con phố nhỏ nơi khu công nghiệp ở Tacoma, chỗ xa lộ 5 dẫn đến Seattle. |
Tôi đã phải lui tới nhiều lần nơi căn hộ Cummings mới gặp được ông ta. Lúc đầu, ông ta có vẻ không muốn nói, nhưng khi thấy rằng tôi thành thật quan tâm đến Robert Kincaid, ông trở nên nhiệt tình và nói huyên thuyên. Những trang sau đây là lời nói của Cummings do tôi ghi lại - có sửa đôi chút chữ nghĩa - khi đó ông này đã bảy mươi tuổi. Tôi chỉ mở máy ghi âm và nghe ông kể về Robert Kincaid. |
Bài phỏng vấn "Ó đêm" Cumming |
Khi đó tôi chơi cho một ban nhạc ở Seattle và tôi cần một tấm ảnh đen trắng để quảng cáo. Tay chơi bass trong ban nhạc có nói với tôi về một gã sống trên một hòn đảo gần đấy chụp coi bộ được lắm. Y ta chẳng có điện thoại nên tôi phải viết nhắn vài chữ. |
Y ta đến, té ra là một lão trông tàng lắm, mặc quần jean, đi ủng và dây đeo quần màu cam. Y ta lôi ra mấy cái máy ảnh cũ xì đến phát khiếp, côi bộ không còn dùng được khiến tôi phải la lên: Ô là là! |
Y bảo tôi đứng dựa vào bức tường sáng cầm cây saxo và yêu cầu tôi chơi chứ đừng ngừng lại. ừ chơi thì chơi, trong chừng ba phút gì đó. Nhìn kỹ, tôi thấy y ta trông cũng được, có cặp mắt xanh lạnh buồn mà tôi chưa hề thấy trước đó bao giờ. |
Một lúc, y ta bắt đầu chụp. Rồi y hỏi tôi có thể chơi bài ”Lá úa“ không. ừ chơi thì chơi. Tôi chơi chừng mươi phút trong khi y thay hết máy ảnh này đến máy ảnh khác và chụp. Rồi y bảo: ”Tốt rồi, mai ông có ảnh“. |
Ngày sau, y mang anh lại cho tôi và tôi té ngửa. Người ta đã chụp tôi hàng tá nhưng chưa có bức nào sánh được với những tấm này. Y bảo tôi trả y 50 đôla, với tôi số tiền đó không đắt lắm. Y ta cám ơn tôi và khi đi ra, y hỏi tôi chơi ở đâu. Tôi trả lời: ”ở quán Shorty“. |
Hôm sau, khi ở trên bục, tôi nhìn xuống thính giả và thấy nơi một bàn khuất trong góc, y đang ngồi lặng lẽ lắng nghe. Từ đó y thường đến quán mỗi tuần một lần, luôn luôn vào ngày Thứ ba, luôn luôn uống bia, nhưng không uống nhiều. |
Đôi khi lúc ngừng chơi, tôi ghé lại bàn y và nói chuyện ít phút. Y trầm lặng, không nói gì nhiều nhưng rất dễ thương. Y luôn luôn nhã nhặn yêu cầu tôi chơi bài ”Lá úa“. |
Biết nhau một ít, người ta dễ thân nhau. Tôi rất thích đi dọc hải cảng ngắm nhìn những chiếc tàu, té ra y cũng vậy. Vì thế chúng tôi hay ngồi trên ghế đá chuyện vãn suốt buổi chiều. ừ thì chuyện lẩm cẩm của hai lão già cảm thấy mình hết còn hữu dụng, đã ở bên lề cuộc đời. |
Thường y hay dắt theo con chó. Trông khá đẹp. Y gọi nó là ”Con Đường“. |
Y có biết về ma thuật. Những tay chơi nhạc jazz cũng vậy. Cho nên chúng tôi hợp nhau. Anh bạn biết đấy, anh bạn chơi một khúc đã chơi hàng ngàn lần mà nay đột nhiên hàng tá ý tưởng mới mẻ vọt ra từ cây ”xắc“ của anh bạn thì không phải chúng có được từ bộ óc của anh bạn đâu. Y nói với tôi rằng nhiếp ảnh và đời sống nói chung cũng thường như vậy. Và y thêm: ”Làm tình với người đàn bà mình yêu cũng vậy“. |
Y đang nghiên cứu một kỹ xảo để tạo ra hình ảnh từ âm nhạc. Một ngày nọ, y bảo tôi: ”John, anh thấy cái điệp khúc mà anh luôn chơi trong nhịp thứ bốn của bài ”Người đàn bà kiêu kỳ“? Tôi nghĩ là tôi đã bắt được cái này vào ảnh sáng nay. ánh sáng chiếu trên nước đúng hệt như ý toi muốn và con hạc xanh bay một vòng trong ống ngắm của tôi, tất cả đều cùng một lúc. Chính là tôi đã thật sự nghe và thấy điệp khúc của anh. Tôi đã dựa vào đó để đưa vào máy ảnh“. |
Y dùng tất cả thời gian để nghiên cứu việc chuyển âm nhạc thành hình ảnh. Coi bộ điều này ám ảnh y dữ lắm. Tôi cũng chẳng biết y sống bằng gì nữa. Y cũng chẳng nói gì nhiều về mình. Tôi chỉ biết là y từng đi nhiều nơi để chụp ảnh chứ không biết gì khác hơn. Một ngày nọ, tôi hỏi y về cái miếng bạc gắn nơi sợi dây chuyền y đeo ở cổ. Nhìn gần, tôi thấy trên đó có khắc chữ ”Francesca“. Tôi mới hỏi y: ”Chắc là một cái gì đặc biệt lắm?“. |
Y không nói gì một lúc, chỉ nhìn làn nước. Rồi y hỏi: ”Anh có rảnh không?“. Có chứ, hôm đó ngày Thứ hai, tôi được nghỉ, nên tôi bảo y tôi có đủ thì giờ. |
Thế là y bắt đầu nói, như thể người ta mở một cái vòi nước vậy. Y nói suốt cả buổi chiều rồi gần như suốt buổi tối luôn. Tôi có cảm giác như y giữ tất cả những điều đó sâu trong lòng từ quá lâu rồi. |
Y chẳng bao giờ giờ nói cho tôi họ của người đàn bà, cũng như câu chuyện xảy ra ở đâu. Nhưng mà, anh bạn ạ, cái lão Kincaid này quả là một nhà thơ khi y nói về bà ta. Bà này hẳn phải là một cái gì đáng kể, một cái gì linh thiêng lắm. Y cũng đọc cho tôi đoạn đầu của một bài viết về bà ấy - cái gì về chiều vô tận, nếu tôi nhớ không lầm. Tôi nhớ là khi đó tôi nghĩ nó giống những bài sáng tác ngẫu hứng của Ornette Coleman vậy. |
Và anh bạn ơi, y vừa nói vừa khóc. Y khóc, những giọt nước mắt to bự, cái loại nước mắt mà phải già người ta mới có thể khóc thế được, cái điệu khóc mà một tay saxo có thể chơi. Sau đó tôi mới hiểu tại sao y bao giờ cũng muốn tôi thổi bài ”Lá úa“. Ông bạn ạ, tôi bắt đầu thấy yêu cái lão này. Một con người có những tình cảm như thế đối với một người đàn bà thì đáng cho ta yêu lắm chứ. |
Thế là tôi bắt đầu nghĩ về y và người đàn bà của y. Nghĩ về cái mà y gọi là ”những phong cách của tiền nhân“. Tôi tự nói: ”Mình sẽ chơi về cái sức mạnh ấy, về cái tình yêu ấy, những cái ”phong cách của tiền nhân“ ấy phải phát ra từ cây kèn của mình“. Cái ấy thật trữ tình. |
Thế là tôi viết cái bản nhạc này. Tôi muốn sử dụng một thủ pháp đơn giản, sắc sảo. Viết những cái phức tạp thì rất dễ. Cái khó là đơn giản. Tôi hì hục suốt ngày cho đến khi thành công. Rồi tôi viết lại và soạn luôn hoà âm cho dương cầm và thụ cầm. Rồi một tối nọ, tôi chơi bài đó trên sân khấu. |
Y có mặt, tối Thứ ba, như mọi lần. Được, tối hôm đó quán yên tĩnh, chỉ có chừng hai mươi khách, người ta cũng chẳng thật chú ý chúng tôi cho lắm. |
Y ngồi im, chăm chú nghe như bao giờ, tôi tuyên bố trong mi-crô: ”Tôi sẽ chơi một bản nhạc do chính tôi viết tặng một người bạn. Bài đó tên là ”Francesca“. |
Vừa nói tôi vừa nhìn y. Y đang quan sát chai bia nhưng khi nghe tôi nói ”Francesca“ y từ từ ngẩng đầu lên, đưa hai tay lùa vào mái tóc bạc xám, thắp một điếu camel và đôi mắt xanh của y đăm đăm nhìn tôi. |
Cây ”xắc“ của tôi chưa bao giờ chơi hay đến như vậy. Tôi làm cho nó khóc than cho cả ngàn cây số và cho những năm dài cách biệt. Có một khúc buồn trong khổ đầu của bài lặp theo tên của người đàn bà ấy: ”Fran...ces...ca“. |
Khi tôi chơi xong, y đứng thẳng lên, mỉm cười rồi lắc nhẹ đầu, trả tiền và bước ra. Sau đó, tôi luôn luôn chơi bài này khi thấy y đến. Y có đóng khung một bức ảnh chụp chiếc cầu có mái che cũ kỹ đem tặng tôi để cám ơn. Bức ảnh treo kia kìa. Y chẳng bao giờ nói y chụp ở đâu, nhưng dưới chỗ y ký tên có ghi ”Cầu Roseman“. |
Một chiều Thứ ba nọ, cách đây bảy hay tám năm, không thấy y đến. Tuần tiếp theo cũng vậy. Tôi nghĩ y bị bệnh hay gặp chuyện gì đó. Tôi bắt đầu lo ngại. Tôi xuống cảng, hỏi thăm. Chẳng ai biết y cả. Cuối cùng, tôi phải đáp tàu đi qua hòn đảo chỗ y ở. Đó là một túp lều cũ kỹ nằm gần bờ nước. |
Tôi đang đi quanh lều thì một người hàng xóm bước ra hỏi tôi tìm gì. Tôi trả lời. Người hàng xóm bảo rằng y đã chết cách đây khoảng mười ngày. Anh bạn ơi, nghe thế tôi hết sức đau lòng. Cho đến bây giờ cũng vậy. Tôi thực sự yêu mến y ta. Có một cái gì lạ nơi con người y. Tôi cho rằng y biết những điều mà chúng ta không hiểu được. |
Tôi hỏi người hàng xóm về con chó. Ông ta không biết. Ông ta cũng không biết cả tên Robert Kincaid nữa. Thế là, tôi bèn gọi bên chỗ ”phú de“ để hỏi cho chắc và quả họ đang giữ con chó. Tôi bèn đến lãnh về và đem cho thằng cháu. Lần cuối cùng tôi thấy, thằng cháu tôi và ”Con Đường“ thích nhau lắm. Điều đó làm tôi vui. |
Thế là gần hết chuyện. Không lâu sau khi tôi biết chuyện xảy ra cho Kincaid, cánh tay trái của tôi bị tê khi chơi kèn quá hai mươi phút. Có chuyện không ổn ở cột sống của tôi. Thế là tôi thôi việc. |
Nhưng mà ông bạn ạ, tôi bị ám ảnh bởi câu chuyện y kể, về y và về người đàn bà. Thế là, vào tất cả những tối Thứ ba, tôi đều lấy cây saxo ra và chơi bản nhạc tôi đã viết tặng y. Tôi chơi ở đây và chỉ để cho chính tôi nghe. |
Tôi cũng chẳng hiểu tại sao, khi chơi, tôi luôn luôn nhìn vào tấm ảnh y tặng. Tôi không biết rõ, nhưng có một cái gì đó khiến tôi không thể rời mắt khỏi bức ảnh khi chơi bản nhạc này. |
Tôi còn ở đây, trong hoàng hôn của cuộc đời. Tôi làm cho cây kèn già nua khóc lên. Tôi chơi bản nhạc dành cho một người đàn ông tên là Robert Kincaid và một người đàn bà mà y gọi là Francesca. |
Hết chương 09, Cảm ơn các ban đã đọc đến hết truyện - Xin mời đọc một bài bình luận tại đây .
|
* * *
|
Copy từ http://4phuong.net/ebook/ |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)