Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

Giải mã Thất Sơn (Kỳ 2)

Giải mã Thất Sơn được đăng thành 3 kỳ.
Giải mã Thất Sơn (Kỳ 2)
Copy từ http://www.congan.com.vn/?mod=detnews&catid=702&id=512897, đăng ngày27/02/14; mục Phóng sự điều tra.
Thành trì quật khởi trên đỉnh núi
Sát biên giới Campuchia còn có ba dãy núi nằm trong Thất Sơn thuộc huyện Tri Tôn là núi Dài, núi Nước và núi Tô. Trên mảnh đất hồi sinh này, những cánh đồng lúa xanh mơn mởn, những trường học ê a tiếng học trò đang khép lại một quá khứ với nhiều nỗi đau.
Núi Dài có tên là Ngọa Long Sơn, dài nhất trong Thất Sơn, 8km. Vì có địa hình hiểm trở và dốc nên ngọn núi này xưa kia từng là căn cứ bí mật của quân và dân An Giang trong những năm kháng chiến. Ngày nay, Ngọa Long Sơn vẫn lưu giữ những vết tích của chiến tranh xưa. Du khách đến tham quan có thể ghé thăm ô Tà Sóc (suối ông Sóc) nằm trên điểm cao của núi Dài thuộc ấp An Ninh, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, cách thị trấn Tri Tôn 11km. Đây là một vùng sơn lâm hiểm trở, từ năm 1962 đến 1967 là căn cứ của Tỉnh ủy An Giang và nhiều cơ quan trực thuộc. Ngoài Điện Trời Gầm, nơi đặt cơ quan tỉnh ủy, còn có Điện Huỳnh Liên, Vồ Cò, Vồ Cỏ Xã... là những cứ điểm quan trọng. Đặc biệt trên đồi Ma Thiên Lãnh có hang rộng chứa hàng nghìn người. Từ căn cứ địa này, Tỉnh ủy An Giang đã chỉ đạo quân và dân đánh đuổi nhiều nhóm thổ phỉ và nhiều lần kháng lại các cuộc càn quét của quân đội Mỹ, quân đội Việt Nam cộng hòa...
Theo lời kể, năm 1969 một tiểu đội tiền tiêu của Đoàn 61 chủ lực Miền bị máy bay địch ném bom sập miệng hang. Bảy chiến sĩ kẹt lại bên trong, lúc đầu đơn vị tiếp lương thực bằng cách dùng ống tre đưa sữa, cháo loãng... Mấy ngày sau, vì địch càn quét liên tục, đơn vị đành phải bỏ lại đồng đội để rút về rừng U Minh.
Khu du lịch của ông Sơn
Qua những thăng trầm, núi vẫn âm u rậm rạp, chỉ có những lối mòn mà đồng bào tìm lên hái thuốc hay bắt bò cạp bán cho người Kinh ngâm rượu, nhiều nhất chợ Tịnh Biên (An Giang). Chỉ cách biên giới nước bạn một cây cầu sắt, bà con hai nước thông thương qua lại và món bò cạp bắt từ núi Dài nổi tiếng khắp vùng. Núi có nhiều cây thuốc trị bệnh, thưa vắng người ở nên thú dữ còn nhiều.
Núi Dài đi qua các xã Châu Lăng, Lương Phi, Ba Chúc, Lê Trì thuộc huyện Tri Tôn. Từ huyện Tịnh Biên đi về phía huyện Tri Tôn, dọc đường chúng tôi trông thấy cảnh người dân mạ lúa dưới bóng mát của những cây thốt nốt. Xa xa là núi Dài chạy tít tắp đường chân trời như một bức tường thành kéo dài không có điểm dừng.
Tài nguyên ở núi Dài gồm: đá xây dựng, cát núi, đất sét cao-lanh (dùng làm sứ cách điện cao cấp) và nước khoáng thiên nhiên. Đặc biệt, diatomite được phát hiện ở xã Lê Trì, nằm cách mặt đất từ 1,8 - 2,2m. Bề dày khoảng 1,7 - 2m, trữ lượng dự báo từ 800.000 - 1.000.000 tấn. Các loại diatomite có ở đây đều lẫn sắt hoặc chất hữu cơ rất cao nên thường có màu xám đen hoặc vàng. Diatomite núi Dài có thể sử dụng rộng rãi trong công nghiệp lọc hoạt tính, đặc biệt lọc bia, rượu, dầu ăn. Đất sét bentonite cũng được tìm thấy tại xã này với trữ lượng khá lớn. Đây là một loại đất chứa nhiều khoáng montmorillonite. Nguyên liệu này rất thông dụng trong công nghiệp, đặc biệt dùng làm chất tẩy rửa dầu nhớt, hút nhờn và làm dung dịch trong các giếng khoan dầu nhớt.
Nằm gần núi Dài là núi Cô Tô, gọi tắt là núi Tô (Phụng Hoàng Sơn, thuộc xã Cô Tô, huyện Tri Tôn) cao 614m, dài 5.800m. Đây là một vùng bán sơn địa và do cấu tạo địa chất đặc biệt, nhiều nơi bên trong núi là một hệ thống hang động ngầm như tổ ong vĩ đại, rất kiên cố. Khu vực núi Tô có nhiều điểm tham quan và nổi bật là đồi Tức Dụp, có nghĩa nước quanh năm. Đồi nằm ở sườn phía tây núi Cô Tô, cách thị trấn Tri Tôn khoảng 18km. Trước năm 1975, ngọn đồi được báo chí gọi là ngọn đồi “Hai triệu đôla” do số bom đạn của Mỹ dội xuống đây được tính ra đồng đôla Mỹ. Đây là căn cứ địa dùng để chống Mỹ của một số quân và dân tỉnh An Giang. Nhờ nơi này trập trùng đá với những lối đi quanh co lúc rộng lúc hẹp, lúc cheo leo và bên trong là những hang động rộng lớn mà khi xưa được dùng làm hang Tuyên huấn của Tỉnh ủy An Giang, kho vũ khí, nơi ăn ở, trạm xá và hội trường có sức chứa khoảng 150 người.
Núi Dài
Nằm ở sườn phía đông núi Cô Tô là một hồ nước có vẻ đẹp hoang sơ, nước hồ luôn xanh biếc và phẳng lặng. Hồ rộng chừng 5 héc-ta, có dung tích khoảng 400.000m³ được đào trong những năm 1986 - 1994, để sử dụng tưới tiêu cho hàng trăm héc-ta ruộng rẫy và cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong vùng. Tính đến năm 2009, đây là hồ nhân tạo lớn nhất của tỉnh An Giang. Một số điểm trên núi đáng tham quan khác là Mũi Tàu, Mũi Hải, Vồ Hội lớn, Vồ Hội nhỏ, suối Cây Giông, Pháo đài và Bàn chân tiên.
Trong mường tượng của chúng tôi, núi Nước chắc cũng cao như các ngọn núi khác nhưng thật ra không phải. Nó chỉ là ngọn đồi, nằm khuất sau cổng một ngôi chùa. Từ Tỉnh lộ 955B rẽ vào khoảng 600m, ngọn núi này nằm cạnh một khu dân cư. Núi Nước (Thủy Đài Sơn) là ngọn núi nhỏ nhất của dãy Thất Sơn, cao 54m, chu vi 1.070m, nằm giữa những cánh đồng rộng lớn. Mặc dù vùng này có nhiều ngọn núi cao hơn (như núi Trà Sư, Ba Thê...) nhưng núi Nước được liệt vào hàng bảy núi có thể do sự tác động bởi những quan niệm thần bí, siêu nhiên trong dân gian...
Ông Ba Lợi cho biết khi chưa có đê bao chống lũ, vào mùa nước nổi (khoảng tháng 7 đến cuối tháng 10 âm lịch), xung quanh núi là một biển nước mênh mông. Vì lẽ đó, núi có tên là núi Nước.
Ông Nguyễn Văn Tọt (bìa trái) kể về núi Dài Năm Giếng
Ngay chân núi có chùa Linh Bửu do Ngô Lợi (giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa) cho xây dựng vào ngày 9-6-1884 (Giáp Thân). Tương truyền, trên đỉnh núi thuở xưa ai đó đã chôn sâu một trụ đá khắc chữ Hán, cốt để trấn yểm long mạch, nhưng sau này bị giáo chủ Ngô Lợi cho đào lên phá hủy. Tuy nhỏ và dáng dấp như một hòn non bộ lớn nhưng núi cũng có ít cây cổ thụ, một ít hang động nhỏ.
Ngày nay, trong thiền tự, núi Nước được minh chứng là một khối đá hình chữ nhật được thờ tự. Bên ngoài có một khối sắt bảo vệ. Núi không cao, nằm trơ trọi giữa tứ bề ruộng lúa, khuất sau những vạt tràm, bên kia là Campuchia. Ngọn núi này có khối đá hình dấu chân được truyền là chân tiên. Nếu như núi Cấm cao nhất trong dãy Thất Sơn thì núi Nước là nhỏ nhất.
Lên núi làm giàu
Nằm ở phía đông thị trấn Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên, cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 70km về hướng tây theo Quốc lộ 91, rẽ qua Tỉnh lộ 948 sẽ gặp hai ngọn núi nằm đối diện nhau là núi Két và núi Dài Năm Giếng. Núi được bao bọc bởi những ngọn khác như núi Đất, núi Trà Sư, núi Bà Đắc.
Được gọi là núi Két vì ở độ cao khoảng 100m tính từ chân núi, bên vách phía tây gần trên đỉnh có một tảng đá khổng lồ nằm nhô ra, theo sự mường tượng của nhiều người nó gần giống mỏ chim két (tức chim anh vũ).
Đường lên đỉnh núi Két dài khoảng 600m, được xây bậc thang và đều có hành lang an toàn. Đi dần lên núi có các địa điểm đáng tham quan như: Sân Tiên, Giếng Tiên, Điện Chư Thần, Điện Phật Thầy, Điện Phật Mẫu, Điện Ngọc Hoàng, Điện Huỳnh Long, Điện Ba Cô, Điện U Minh, Điện Chư Vị Năm Non Bảy Núi và tiêu biểu nhất là mõm ông Két cùng với nhiều truyền thuyết dân gian. Gần chân núi có ba di tích rất được nhiều người đến thăm viếng và chiêm bái hơn cả đó là đình Thới Sơn, chùa Thới Sơn, chùa Phước Điền, vì đều gắn liền với thời lưu dân đi mở đất và với giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương.
Trên đỉnh núi Dài Năm Giếng
Ở độ cao 100m là mõm ông Két, mặc dù vách đá cheo leo nhưng chủ nhân đã cho xây dựng một sân rộng vừa ngắm cảnh vừa làm điểm dừng chân. Sau lưng mõm ông Két là điện thờ Chư Vị Năm Non Bảy Núi, những người có công khai khẩn vùng Thất Sơn, riêng Năm Non là cụm từ chỉ địa danh năm “chỏm” cao gọi là “vồ” gồm: vồ Bồ Hong, vồ Bướm, vồ Đầu, vồ Bà, vồ Tiên Tuế. Bên ngoài điện có hai câu: “Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi (tả)/ Miền Bảy núi mà sau báu quý (hữu)”. Tiếp tục lội lên Bãi Sân Tiên (mỏm núi) phải mất một giờ mới đến nơi, được xem nhiều hạng mục xây dựng. Nơi đây không khí lạnh như Đà Lạt, gió lồng lộng mát rượi xua đi cơn mệt mỏi. Núi Két bây giờ đã hình thành một khu du lịch tâm linh do tư nhân xây dựng. Người ta ví von rằng vợ chồng ông Nguyễn Văn Sơn (61 tuổi) - Nguyễn Thị Hòa Liên (63 tuổi) là chủ núi ở đây.
Sinh ra ở huyện Châu Phú (An Giang), ông Sơn từng lên Sài Gòn bôn ba tìm việc. 19 tuổi, ông lui về đây tìm kế sinh nhai. Lúc đầu, ông làm nghề gánh đào (điều lộn hột) thuê cho các nương rẫy nên mới có biệt danh Sơn “đào”. Làm lụng tích lũy mãi ông mới có một ít tiền để mua bán đào rồi mua củi khô của các chủ vườn đào bỏ đi để mang xuống núi kiếm lời. Qua vài năm, ông cũng có số dư ngon lành. Thấy các chủ nương rẫy bán đất rẻ, ông lấy tiền tiết kiệm mua hết. Chẳng mấy chốc ông đã có trong tay 20 héc-ta đất núi và quyết định làm khu du lịch.
Như con dã tràng, vợ chồng ông lúc đầu phải lấy công làm lời để cải tạo lối mòn, phát từng bụi rậm làm đường đi cho du khách. Một khối cát dưới núi chỉ có giá 300 nghìn đồng nhưng thuê nhân công cõng lên đỉnh núi trả giá một triệu đồng. Trời không phụ lòng người, khách đến đây chiêm bái ngày một đông. Từ tiền lời bán vé (8.000 đồng/vé), ông đưa điện và nước lên núi để phục vụ du khách. Du khách có thể nằm võng hoặc ngủ lại trên núi đều được phục vụ tận tình. Ông Sơn bảo: “Nơi đây có rất nhiều điều linh thiêng, làm du lịch văn hóa gắn với tâm linh nhất định sẽ thành công. Không có đường đi sẵn mà đi mãi sẽ thành đường”. Nghĩ vậy nên suốt ngày ông cùng gia đình chăm lo cho từng hạng mục để thu hút khách phương xa. Nhìn cách làm du lịch rất tinh tế của ông Sơn, chúng tôi liên tưởng đến ông già Mà Giá ở huyện Khánh Vĩnh (Khánh Hòa) cũng rất sáng tạo khi làm một khu du lịch trên con đường nối hoa và biển.
Đối diện núi Két trên con đường dẫn về biên giới là núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn), còn được gọi là núi Dài Nhỏ. Đây là ngọn núi cao thứ tư trong Bảy Núi thuộc tỉnh An Giang. Núi cao 265m, chu vi 8.751m thuộc thị trấn Nhà Bàng, riêng vách phía tây và đông thuộc địa phận xã An Phú, xã Văn Giáo (Tịnh Biên). Sở dĩ có tên núi Dài Năm Giếng vì trên núi có năm nơi mặt đất trũng sâu như giếng nước. “Giếng tiên” này giống ở đỉnh núi Ba Thê (huyện Thoại Sơn, An Giang) nằm ở hướng ngược lại. Núi tuy hiểm trở nhưng có nhiều cảnh đẹp, nhiều vườn cây trĩu trái quanh năm như ổi, xoài, bưởi, mận, sầu riêng, thanh long... cho nên có người mô tả “nhìn theo hướng mỏ Két của núi Két, phía trước mặt là dãy Ngũ Hồ Sơn, có thể ví như một hòn non bộ khổng lồ tuyệt đẹp”. Ngoài ra, nơi đây còn có nguồn tài nguyên là đá xây dựng thuộc nhóm sáng màu mịn hạt và đá ốp lát dùng để trang trí.
Muốn lên đỉnh núi, chúng tôi phải chạy xe máy cả chục kilômét xuyên qua những đường mòn độc đạo được cổ thụ che mát, không có nắng lọt qua giống như đi trong... đường hầm.
Dừng chân ở đỉnh núi, chúng tôi gặp ông Nguyễn Văn Tọt (55 tuổi), trước đây là dân phường Phú Hiệp, TP.Châu Đốc nay vào làm rẫy, trồng xoài. “Hồi xưa vua Gia Long vào đây ở, cắm gươm vào đất tạo thành năm giếng. Từ nhỏ, tôi đã được cha mẹ kể như vậy đó” - ông Tọt nói. Đi tiếp một đoạn là một xóm du mục với những căn nhà rách nát, trống trước dột sau. Họ lên đỉnh núi sống để làm nghề nương rẫy và chăn nuôi heo, gà. Chủ nhân ngôi nhà đầu tiên là chị Nguyễn Thị Hậu (29 tuổi). Chị có hai con đang học lớp 2 và 5, Trường THCS Nhà Bàng dưới chân núi. Chồng chị - anh Nguyễn Văn Hoài làm nghề đốn củi. Chị giới thiệu: “Tui phụ chồng làm nghề bán củi. Mang củi từ đây xuống lộ (đường) bán được 90 nghìn đồng một mét để bỏ mối cho lò bánh. Dân ở đây xài nước giếng đào, mùa hạn thì chở nước nhà lên. Sống trên đây để mần đất rẫy, đất của nhà mà!”.
Cạnh chòi chị Hậu là chòi của bà Phan Thị Duyên (55 tuổi), chồng là Võ Văn Phúc (60 tuổi). Họ có một đứa con gái tên Võ Thị Hồng Điệp, được gả chồng từ năm 19 tuổi. Nhà họ trước đây gần chợ Nhà Bàng nhưng vài năm qua, khi cuộc sống túng thiếu đã chuyển lên núi làm nương rẫy.
Ông Phan Văn Quang (55 tuổi) và vợ Nguyễn Thị Khánh (53 tuổi) có năm đứa con, nhà gần chợ Nhà Bàng nhưng hơn 20 năm qua đã lên núi làm nương rẫy. Cùng đi với ông là cậu em trai Phan Văn Tiếp. Ông Quang nói rằng, hằng năm cứ đến ngày 12-8 là ngày viếng Phật thầy Tây An hay rằm tháng 7, tháng 10 thì dòng người hành hương lên núi rất đông, chứ ngày thường vắng lắm. Ngoài đường này, muốn lên đỉnh núi còn có đường đi từ nghĩa trang Tịnh Biên. Mùa mưa ở đây có nước, phải dự trữ nước mưa xài dần. Mùa mưa từ tháng 12 đến Tết Nguyên đán. 17 tuổi, ông Quang đi bộ đội ở huyện đội, làm vệ binh từ năm 1975 đến 1978. Ông từng chốt cặp (sát) biên giới xã Lạc Quới, huyện Tri Tôn. Hiện ông cùng cậu em trai lấy đá núi để xây nhà tạm, trông giữ vườn vú sữa, xoài.
Gởi xe máy ở chòi ông Quang, chúng tôi phải leo dốc để lên đỉnh. Vượt qua những nương rẫy đang mùa xanh lá, lội bộ cả cây số, chúng tôi lên tới đỉnh núi. Từ đây nhìn ra xa là con kênh Vĩnh Tế nối ra biển Đông mang tên phu nhân của tướng quân Thoại Ngọc Hầu. Trên bát ngát gió trời là một ngôi miếu và năm giếng nước được hình thành từ đá núi. Người địa phương nói rằng, nơi này rất linh thiêng và kỳ bí là vì vậy.
(Còn tiếp) - Xem tiếp kỳ (3)tại đây.
AN HÒA - HẢI VĂN

Không có nhận xét nào: