Copy từ http://doanvantiet.vnweblogs.com/post/7634/371841; đăng ngày 08/07/12, mục Sống khỏe. |
Phỏng vấn nhà văn Văn Quang v/v "Lá đu đủ chữa ung thư". |
Câu hỏi : |
Tôi nghe nói ông có giúp một số bạn bè mắc bệnh ung thư bằng cách mua giúp lá đu đủ để chữa bệnh. |
Xin hỏi ông: có phải lá đu đủ nào cũng chữa được tất cả các bệnh ung thư? Và những người bạn của ông đã thuyên giảm bệnh UNG THƯ GÌ? |
Cảm ơn ông. (NVT- Sydney) |
Trả lời |
Đúng như bạn biết, tôi thường cung cấp lá đu đủ cho một vài người bạn hoặc người quen để chữa bệnh ung thư. Tôi không đi mua mà đi kiếm và tự trồng đu đủ khi còn ở Lộc Ninh. Nay tôi ở hẳn tại Sài Gòn thì nhờ người nhà ở Long Khánh kiếm giùm. Tôi cũng xin nói rõ là tôi không phải là người tìm ra cách chữa bệnh ung thư bằng lá đu đủ. Sự việc này bắt đầu từ năm 2001. |
Trường hợp đầu tiên là nhà văn Uyên Thao chỉ uống lá đu đủ. |
Khi nhà văn Uyên Thao từ Virginia ở Mỹ về thăm lại Sài Gòn. Anh cho biết chắc chắn đây là lần về cuối cùng. Lý do là anh bị ung thư bao tử và được giải phẫu cắt bỏ bao tử vào tháng 12/2001 - tức là cách đây 10 năm. Bác sĩ tại Bệnh viện Fairfax cho biết anh chỉ có thể sống được thêm 8 tháng (may mắn lắm mới có thể sống tới cuối năm 2001, cùng lắm là 2004). Anh trở lại Sài Gòn để "chào từ biệt" họ hàng anh em ở Đà Lạt và Sài Gòn, lúc đó thời hạn "báo tử" đã được bốn tháng rồi, chỉ còn bốn tháng nữa thôi là "ra đi". Anh em đều ngậm ngùi đau xót. Lúc đó tôi mới chợt nhớ ra rằng có người nói với tôi đã khỏi bệnh ung thư bằng cách uống lá đu đủ. Cứ lấy lá đu đủ pha như nước trà mà uống hằng ngày. Vậy "còn nước còn tát", tôi đề nghị đi kiếm lá đu đủ cho anh Uyên Thao mang về Mỹ uống. Và chúng tôi đã thực hiện phương pháp cuối cùng này với niềm tin rất mong manh. Ít lâu sau, tôi không nhớ rõ là bao lâu, nhưng chắc là sau thời gian 4 tháng còn lại của cuộc đời, anh Uyên Thao báo tin vẫn khỏe mạnh vì uống lá đu đủ đều đều hằng ngày. Chờ một thời gian nữa, có lẽ là 4 năm sau, khi anh Uyên Thao về Sài Gòn lần thứ hai, tôi thấy anh có vẻ khỏe mạnh hơn lần trước nhiều. Tôi hỏi thẳng ngay: "Ngoài lá đu đủ ra, mày còn uống thêm thứ thuốc nào khác không?". Anh nói "Không, tao bị xạ trị, sợ quá rồi nên không uống thêm thứ thuốc nào khác cả". Tôi hỏi để xác định xem có phải chỉ vì lá đu đủ mà anh khỏe mạnh không. Bởi thật ra hồi đó chưa có một minh chứng khoa học nào về lá đu đủ chữa khỏi bệnh ung thư (nay đã có rồi). Cho nên ngay cả với những người thân quen tôi cũng phải nói rõ. Trong một bài viết về vấn đề này, hồi năm 2005, tôi trích lại để bạn đọc Thời báo cùng biết: |
Sự thật về lá đu đủ có chữa được ung thư không? |
Trong những năm gần đây, một đôi lần, tôi cũng đã được một số bạn bè hoặc người quen ở nước ngoài, hỏi xin lá đu đủ để chữa bệnh ung thư. Tôi đã từng trình bày rõ ràng với một số bạn bè và người quen về trường hợp này. Nhân ở đây tôi cũng xin trình bày cụ thể hơn về chuyện lá đu đủ có chữa bệnh ung thư không. Câu trả lời của tôi hết sức chân thật rằng tôi hoàn toàn không thể biết hiệu quả của nó ra sao, tôi cũng chỉ nghe người ta nói lại và yêu cầu tôi kiếm giùm thứ lá đu đủ này. Từ đó tôi nhận được nhiều nguồn tin cho biết về một số trường hợp đã uống lá đu đủ, có người khỏi hẳn, có người kéo dài được cuộc sống trong một khoảng thời gian nào đó, có người không mang lại hiệu quả gì, "ra đi" luôn, nhưng hầu hết là vì bệnh tình quá nặng rồi. |
Tôi chỉ còn biết làm mỗi công việc là đi tìm lá đu đủ phơi khô để gửi cho những bạn nào ở nước ngoài cần. Sau đó thì người ta lại mách rằng phải có lá đu đủ đực mới công hiệu. Thôi thì người ta mách, cứ dùng. Thứ lá "đực" này thì quá hiếm vì đó là thứ cây đu đủ không có trái nên chẳng ai giữ làm gì cho tốn đất, cứ thấy đu đủ đực thì người ta chặt phăng ngay. Vì thế cho nên tôi lại phải nhờ người nhà ở Long Khánh vào rừng kiếm rồi trồng đu đủ đực ngay trong vườn nhà. Như vậy mới có để cung cấp cho bạn bè và ngay cả những người không quen. Tôi cũng xin nói rõ là tôi hoàn toàn tặng theo yêu cầu, tuyệt đối không hề nhận bất cứ cái gì của ai, dù là một bao thuốc lá. Thứ hai là dùng lá đu đủ để chữa bệnh, tôi chưa biết có một trung tâm y khoa hoặc nhà nghiên cứu nào công bố về tác dụng lợi hại của nó ra sao. Đây chỉ là bài thuốc dân gian, có lẽ chỉ có ở Việt Nam. Tôi chỉ biết rằng có người bạn của tôi đã uống lá đu đủ này từ vài ba năm nay và không gây tác hại gì, đến nay vẫn mạnh khỏe. Đó là những sự thật về lá đu đủ. Ai tin thì dùng. Chưa thể có một kết luận nào rõ ràng". -(Trích trong bài viết của tôi năm 2005). |
Tôi cũng xin thông tin thêm là mới gần đây, tôi vẫn gửi lá đu đủ phơi khô cho anh Uyên Thao, và ngày 29/04/2011 tức 10 năm sau, anh Uyên Thao còn gửi email xác nhận với tôi: "Bây giờ vẫn ngồi viết thư cho mày, không biết có phải vì đã liên tục uống lá đu đủ không". Anh cũng cho biết uống nước lá đu đủ không gây một tác dụng phụ nào. Nói rõ hơn là không độc hại, nếu không có ích thì cũng vô hại. |
Đến nay, qua những trang internet và bạn bè gửi cho, tôi đã thấy một số công trình nghiên cứu tìm thấy tính chất của lá đu đủ có thể chữa khỏi bệnh ung thư. Đó là điều đáng mừng. Xin trích dẫn: |
Các nhà khoa học Nhật Bản và Mỹ vừa phát hiện thêm một tác dụng mới của cây đu đủ: chất chiết xuất từ lá đu đủ có khả năng diệt tế bào ung thư. |
Kết quả nghiên cứu mới này được đăng tải trên "Tạp chí dược lý dân tộc" của Nhật Bản. Theo phát hiện mới của nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học của Văn phòng thí nghiệm lâm sàng thuộc Trung tâm Ung thư, Đại học Florida ở Mỹ và Đại học Tokyo ở Nhật Bản, chất chiết xuất từ lá đu đủ có khả năng kháng ung thư và hiệu quả này tương thích với tất cả các tế bào ung thư được gây dựng trong phòng thí nghiệm, gồm ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư gan, phổi, ung thư tuyến tụy... |
Mặt khác, việc sử dụng chất chiết xuất từ lá đu đủ kháng ung thư còn có ưu điểm ở chỗ nó không mang độc tính và không gây ra tác dụng phụ. Nó có thể tiêu diệt tế bào ung thư, song không ảnh hưởng xấu đến các tế bào khỏe mạnh, vì vậy sẽ tránh được các trường hợp làm tổn thương đến cơ thể người bệnh như khi dùng các loại thuốc thông thường..." |
Thưa bạn, như thế chúng ta đã có thể tạm thời yên tâm về vấn đề này. Tôi xin nói thêm về hai trường hợp khác mà tôi đã biết. |
Trường hợp khỏi bệnh của một phụ nữ tại Lộc Ninh. |
Khi tôi nhờ nhà văn nữ Thụy Vũ ở Lộc Ninh phơi lá đu đủ để gửi cho anh Uyên Thao, một chị hàng xóm ở sát cạnh nhà bà Thụy Vũ hỏi phơi lá này để làm gì. Khi được trả lời là để chữa khỏi bệnh ung thư, bà này liền bắt chước, phơi lá đu đủ sẵn có trong vườn và hằng ngày chịu khó uống và uống đậm đặc hơn người thường, vì bà bị ung thư tử cung đến thời kỳ mà bác sĩ nói chỉ chờ ngày ra đi thôi. Một năm sau, bà đến bệnh viện tái khám, bác sĩ cũng ngẩn ngơ không hiểu tại sao bà khỏi bệnh. Chúng tôi lại thấy bà đi xe đạp, đèo từng đống hàng như đàn ông và... xin lỗi các bạn, bà lại có "bồ", vi vút như không có gì xảy ra. |
Trường hợp thứ ba là của bạn bè và bà mẹ của nhà văn Đào Vũ Anh Hùng ở Mỹ. |
Đây là đoạn văn do chính nhà văn Đào Vũ Anh Hùng viết trên trang web của MANG VIEN LONG ngày 26/09/2009: |
"Hồi mới qua Mỹ, khoảng cuối thập niên '70, tôi có đọc một tài liệu trên một tạp chí Y Khoa bằng tiếng Anh, do một bác sĩ người Đức làm việc bên Úc, công bố: "Thổ dân Úc đã biết dùng Lá Đu Đủ chữa khỏi bệnh ung thư. Sau này báo Văn Nghệ Tiền Phong có dịch ra Việt ngữ phổ biến nhưng tôi không quan tâm mấy. Cho đến năm 2001, tôi có anh bạn Không Quân, qua đây bị ung thư phổi, chữa trị gần một năm không khỏi, đến giai đoạn cuối không còn cách chữa, BS cho về, khẳng định anh ta chỉ còn sống được nhiều lắm là 5 ngày. Anh ta về nhà, nghĩ còn một cách chữa trị có biết nhưng chưa thử lần nào, là nước lá đu đủ. Anh dùng và thấy kết quả hết sức nhanh chóng. Anh cho tôi biết chỉ sau 3 ngày đầu dùng lá đu đủ, anh hết đau ngay và không còn máu mủ từ phổi thải ra theo ống nhựa ra ngoài (rất hôi thối). Anh ta khỏi, sống được 8 năm nữa, khỏe mạnh như xưa. Sau này anh chết vì tai nạn xe hơi. |
Trường hợp thứ hai là chính mẹ tôi. Cụ năm đó 80 tuổi, bị ung thư xương, 1/3 xương chậu của cụ bị ung thư "ăn" rỗng, nơi đó đùn lên một mass ung thư, rất đau đớn. Nói gọn, sau một thời gian khoảng 8 tháng, tôi cho Mẹ tôi uống nước lá đu đủ song song với radiation và chemo-therapy. Cụ không bị side effect hay reaction như các bệnh nhân khác. Đến tháng thứ 11, Cụ tôi khỏi nhưng tôi không dám "khai thật" với bác sĩ về lá đu đủ vì e họ tự ái nghề nghiệp hoặc lỡ xảy ra chuyện gì sẽ hết sức phiền phức cho tôi. Còn khá nhiều trường hợp khác, tôi không thể cà kê nói ra đây. Tôi chỉ có thể nói là kể cả những người dùng lá đu đủ không khỏi vì ung thư đã chạy lên tới óc rồi, tuy nhiên những người này ra đi êm ái, nhẹ nhàng, gia đình không có gì phàn nàn. Có một vài người khỏi đến nay vẫn uống cầm chừng nước lá đu đủ vì sợ bị tái phát. |
(Bạn có thể lên internet, vào Google, đánh vào "lá đu đủ" sẽ thấy trang web này với rất nhiều bài nói về lá đu đủ chữa bệnh ung thư như thế nào, và có cả bài trên đây). |
Sau cùng, tôi xin nói rõ hơn về cách uống lá đu đủ: |
1- Hái lá đu đủ rửa sạch, xắt nhỏ, phơi khô. |
2- Sao vàng vàng, để giữ lâu không bị ẩm mốc. |
3- Hằng ngày nấu lấy nước cho uống như nước trà, không hạn chế. |
4- Nước nấu xong không quá đậm, chỉ có màu vàng nhạt cánh kiến thôi! |
5- Dùng liên tục được 1 tháng, sẽ có nhiều biến chuyển, hạn chế được phát triển của bệnh và sau đó sẽ dần dần khỏi! |
6- Xay nước Mãng Cầu Xiêm (ngày 1-2 ly) cho uống thêm-để tăng sức và góp phần chữa bệnh nhanh chóng. |
Văn Quang / Viết từ Sài Gòn |
Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013
Lá đu đủ chữa bệnh ung thư
Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013
Chén trà trong văn hóa ẩm thực Việt Nam
(Copy từ http://tamhoc.com/2013/03/chen-tra-trong-van-hoa-am-thuc-viet-nam/;đăng ngày March 26, 2013,mục Phong tục tập quán;theo naungon, do Nha Nha dưa lên)
Chén trà trong văn hóa ẩm thực Việt Nam
Văn hóa ẩm thực nảy sinh đồng thời với sự xuất hiện của loài người và ngày càng phong phú theo sự phát triển của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần Việt Nam
Từ xưa đến nay, loài người đã xây dựng, tích luỹ, bồi đắp được nhiều tri thức sâu sắc, đa dạng và độc đáo chung quanh chuyện ăn uống thường ngày. Ðặc biệt, nghệ thuật ẩm thực của người Á đông thấm đượm quan điểm chỉnh thể, lấy sự quân bình âm dương và hoà hợp thiên nhiên làm nền móng, trong đó nghệ thuật thưởng trà là một trong những nghệ thuật ẩm thủy hàng đầu.
Theo một tài liệu khảo cứu của ủy ban Khoa học Xã hội thì người ta đã tìm thấy những dấu tích của lá và cây chè hóa thạch ở vùng đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ). Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè đã có từ thời kỳ đồ đá sơn vi (văn hóa Hòa Bình). Cho đến nay, ở vùng Suối Giàng (Văn Chấn – Nghĩa Lộ – Yên Bái), trên độ cao 1.000 m so với mặt biển, có một rừng chè hoang khoảng 40.000 cây chè dại, trong đó có một cây chè cổ thụ lớn nhất, ba người ôm không xuể.
Ðã có những kết luận khoa học trong và ngoài nước khẳng định rằng: Việt Nam là một trong những “chiếc nôi” cổ nhất của cây chè thế giới. Tục uống trà ở Việt Nam rất phong phú. Từ cách uống cầu kỳ cổ xưa đến cách uống bình dân, hiện đại. Thường một bộ đồ trà có bốn chén quân, một chén tống để chuyên trà. Nước pha trà phải là thứ nước mưa trong hoặc thứ sương đọng trên lá sen mà người đi thuyền hứng từng giọt vào buổi sớm. Phương ngôn còn lưu truyền những lời dạy về cách uống trà như “trà dư, tửu hậu”, “rượu ngâm nga, trà liền tay”, “Bán dạ tam bôi tửu. Bình minh nhất trản trà”…
Nói đến nghệ thuật thưởng trà Việt Nam là người ta lại nhắc đến thú uống trà của người Hà Nội. Vẻ thanh lịch, trang nhã, sự cầu kỳ trong ẩm thực của người Hà Nội đã nâng tính thẩm mỹ của chén trà lên một trình độ rất cao. Nếu người dân vùng khác thích uống trà “mộc” (trà không ướp hương) thì nhiều gia đình Hà Nội xưa lại thích uống trà ướp sen, trà nhài, trà ngâu, trà cúc, trà sói… Ðặc biệt trà sen là một thứ trà quý chỉ dùng để tiếp khách tri âm hoặc làm quà biếu. Trà sen tựa thứ trà mạn Hà Giang, mỗi cân ướp từ 1000 – 1200 bông sen Tây Hồ và phải là thứ sen chưa bóc cánh với “độ” hương cao nhất.
Trà được ủ nóng trên bếp than, lúc khát, chắt nước trong nồi ra uống. Người Việt Nam hiện nay uống chủ yếu là trà xanh sơ chế bằng phương pháp thủ công mà người đời thường gọi là “trà mộc”,”trà sao suốt” hay “trà móc câu”. Gọi là “trà móc câu” vì cánh trà sao quăn giống hình chiếc móc câu. Song người sành trà lại bảo phải gọi là “trà mốc cau” mới đúng vì chè tròn cánh, trôi tay, có mốc trắng như mốc cây cau. Còn “trà sao suốt” là phương pháp sao trà bằng nhiệt, tách nước (giảm bớt thủy phần) bằng tay với ngọn lửa liên tục, đều đặn, không to quá, không nhỏ quá. Người ta sao trà bằng chảo gang. Những thứ trà ngon thường được gọi chung là “chè Thái”. Nhưng thực ra, trà bán ở thị trường hiện nay có rất nhiều nguồn gốc: trà Tân Cương, trà Mạn Hà Giang, trà Vị Xuyên, trà Lục Yên Bái, trà Suối Giàng….
Song trà dù được chế biến, được uống bằng cách nào (độc ẩm, đối ẩm, quần ẩm) vẫn biểu thị một thứ “đạo”. ” Ðạo trà” Việt Nam thật trân trọng ở cách dâng mời đầy ngụ ý. Dù lòng vui hay buồn, dù trời mưa hay nắng, khách cũng không thể từ chối một ly trà nóng khi chủ nhà trân trọng dâng mời bằng hai tay. Dâng trà đã là một ứng xử văn hóa phổ quát biểu hiện sự lễ độ, lòng mến khách.
Uống trà cũng là một ứng xử văn hóa. Uống từng ngụm nhỏ để thưởng thức hết cái thơm ngọt của trà và cảm nhận hơi ấm của chén trà đủ nóng bàn tay ta khi mùa đông lạnh giá. Uống để đáp lại lòng mến khách của người dâng trà, để bắt đầu một tâm sự, một nỗi niềm, để bàn chuyện gia đình, xã hội, nhân tình thế thái, để cảm thấy trong trà có cả hương vị của trời đất, cỏ cây. Dâng trà và dùng trà cũng là một biểu hiện phong độ văn hóa, sự thanh cao, tình tri âm, tri kỷ, lòng mong muốn hoà hợp và xóa đi những đố kỵ, hận thù. Uống trà là một cách biểu thị mức độ tình cảm và học vấn người đối thoại.
Những khía cạnh của văn hóa ứng xử Việt Nam rất phong phú và biểu hiện tập trung nhất ở tục uống trà. Người ta có thể uống trà một cách im lặng và nhiều khi sự im lặng đã ẩn chứa nhiều điều. Người ta có thể xét đoán tâm lý người đối thoại khi dùng trà. Khi đã trở thành một cái thú thì người ta không thể quên nó, vì trà đồng nghĩa với sự sảng khoái, tỉnh táo, tĩnh tâm để mưu điều thiện, tránh điều ác. Tuy nhiên, trà cũng rất cần sự tiết độ. Người Việt Nam không uống nhiều, uống đặc và cũng không thể uống liên tục suốt ngày. Vì trà là một triết học về sự tế nhị, nhạy cảm, thanh tao, sự suy ngẫm và óc tỉnh táo. Trà là một sự giao hòa với thiên nhiên, sự ứng xử hợp lý với thời gian, sự tiếp cận đầy nhân tính với không gian, với môi trường và con người
Ở Việt Nam luôn tồn tại một nền văn hóa trà thanh lịch và tỏa hương.
Theo naungonThứ Ba, 26 tháng 3, 2013
Nữ cử nhân bưng bê và vị giáo sư 500 triệu
Nữ cử nhân bưng bê và vị giáo sư 500 triệu
Liệu có chính sách thu hút nhân tài nào chỉ nhăm nhăm nhìn vào sự sang trọng của học hàm học vị, thậm chí, dựa trên xuất xứ của một tấm bằng
Tháng 10-2012, Báo điện tử Bạc Liêu kể lại câu chuyện gian nan tìm việc của một “cử nhân ngữ văn”. Bắt đầu bằng việc “gõ cửa” cùng lúc 3 cơ quan đang có nhu cầu tuyển người, nhiều tháng sau đó, những lá đơn của cô vẫn bóng chim tăm cá. Không nản lòng, cô tiếp tục gửi hồ sơ đến 3 cơ quan khác và tất lẽ dĩ ngẫu vẫn là… tăm cá bóng chim. Đến giờ, không rõ số phận nữ cử nhân ra sao. Cũng chẳng loại trừ cô phải đi “bưng bê” ở đâu đó, cử nhân gì thì cũng phải có miếng đút miệng để sống. Và trường hợp của cô, thật tròn vạnh cho một hiện thực không ít phổ biến: Tri thức, hay chất xám, mà không có điều kiện đảm bảo, chẳng hạn như dân gian vẫn gọi là 4C, hay nói như PGS Trần Đình Huỳnh, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Viện Mác – Lênin là tệ “ấm tử, ấm sinh” (tình trạng bố trí, cất nhắc con em, người thân vào các vị trí lãnh đạo trong bộ máy nhà nước), thì tất nhiên sẽ bị loại “ngay từ vòng gửi xe”.
Nữ cử nhân ngữ văn không phải là bi kịch duy nhất ở Bạc Liêu. Một chàng kỹ sư nuôi trồng thủy sản sau khi “gõ hết các cửa”, đánh liều xin làm công nhân cho một DN. “Giở hồ sơ thấy cái bằng đại học, họ không chịu nhận”. Kỹ sư nuôi trồng thủy sản ở một tỉnh “miệt biển” như Bạc Liêu mà thất nghiệp. Nghĩ cũng bi kịch. Nhưng bi kịch nhất là lời than thở của chàng kỹ sư “Tốt nghiệp đại học mà xin “cao” cũng chẳng được. Xin “thấp” cũng không xong”.
Những bi kịch này, theo báo Bạc Liêu, là do tấm bằng cử nhân có xuất xứ từ “Đại học Bạc Liêu”. “Nghe “Đại học Bạc Liêu”, nhiều cơ quan tỏ ra không còn mặn mà gì với việc xem xét hồ sơ. Thậm chí, có một số cơ quan như Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng NN&PTNT… đã loại ngay từ vòng… nộp hồ sơ”- bài báo viết.
Các cơ quan công quyền ở Bạc Liêu, kỳ thị con em Bạc Liêu, chỉ vì họ tốt nghiệp đại học Bạc Liêu. Đúng là chuyện chỉ có ở Bạc Liêu.
Nhưng đó không chỉ là chuyện ở Bạc Liêu. Còn nhớ trong một hội nghị về công tác nhân tài, PGS-TS Đỗ Minh Cương, Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuộc Ban Tổ chức trung ương đã nói ra một sự thật: “Giả thiết nếu Bill Gates có làm việc trong hệ thống chính trị nước ta thì đến già cũng không lên được trưởng phòng…”.
Những cử nhân “Chính gốc Bạc Liêu” hẳn sẽ ngậm ngùi lắm khi hôm qua, họ đọc trên báo dòng tin về chính sách trải thảm đỏ của tỉnh nhà. Sau Quảng Ngãi, Bạc Liêu đã đưa ra những con số khủng để “thu hút nhân tài”. Ừ thì giáo sư được hỗ trợ 500 triệu khi ok về công tác tại Bạc Liêu. Ừ thì bác sĩ, dược sĩ, thạc sĩ được “trăm bảy đến hai trăm hai”. Ừ thì học hàm học vị. Ừ thì trọng nhân tài. Nhưng còn những cử nhân bản địa với ước mơ lãng mạn đóng góp xây dựng quê nhà?
Liệu có chính sách thu hút nhân tài nào chỉ nhăm nhăm nhìn vào sự sang trọng của học hàm học vị, thậm chí, dựa trên xuất xứ của một tấm bằng?
Liệu có sự thành công nào có được bằng việc vọng ngoại, và kỳ thị nguồn nhân lực bản địa đang ế chỏng ế trơ?
Trong cuộc gặp Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết năm 2008, Tổng thống Lý Quang Diệu, người đã biến Singapore thành một nơi “quần hào tụ hội” đã chân thành, rằng: Quan trọng là không để trì trệ nằm trong dòng chảy của mình.
Hình như chính sách trải thảm ở Quảng Ngãi, ở Bạc Liêu phải được bắt đầu bằng việc dẹp bỏ sự trì trệ trong tư duy những người làm công tác cán bộ.
Liệu có chính sách thu hút nhân tài nào chỉ nhăm nhăm nhìn vào sự sang trọng của học hàm học vị, thậm chí, dựa trên xuất xứ của một tấm bằng
Tháng 10-2012, Báo điện tử Bạc Liêu kể lại câu chuyện gian nan tìm việc của một “cử nhân ngữ văn”. Bắt đầu bằng việc “gõ cửa” cùng lúc 3 cơ quan đang có nhu cầu tuyển người, nhiều tháng sau đó, những lá đơn của cô vẫn bóng chim tăm cá. Không nản lòng, cô tiếp tục gửi hồ sơ đến 3 cơ quan khác và tất lẽ dĩ ngẫu vẫn là… tăm cá bóng chim. Đến giờ, không rõ số phận nữ cử nhân ra sao. Cũng chẳng loại trừ cô phải đi “bưng bê” ở đâu đó, cử nhân gì thì cũng phải có miếng đút miệng để sống. Và trường hợp của cô, thật tròn vạnh cho một hiện thực không ít phổ biến: Tri thức, hay chất xám, mà không có điều kiện đảm bảo, chẳng hạn như dân gian vẫn gọi là 4C, hay nói như PGS Trần Đình Huỳnh, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Viện Mác – Lênin là tệ “ấm tử, ấm sinh” (tình trạng bố trí, cất nhắc con em, người thân vào các vị trí lãnh đạo trong bộ máy nhà nước), thì tất nhiên sẽ bị loại “ngay từ vòng gửi xe”.
Nữ cử nhân ngữ văn không phải là bi kịch duy nhất ở Bạc Liêu. Một chàng kỹ sư nuôi trồng thủy sản sau khi “gõ hết các cửa”, đánh liều xin làm công nhân cho một DN. “Giở hồ sơ thấy cái bằng đại học, họ không chịu nhận”. Kỹ sư nuôi trồng thủy sản ở một tỉnh “miệt biển” như Bạc Liêu mà thất nghiệp. Nghĩ cũng bi kịch. Nhưng bi kịch nhất là lời than thở của chàng kỹ sư “Tốt nghiệp đại học mà xin “cao” cũng chẳng được. Xin “thấp” cũng không xong”.
Những bi kịch này, theo báo Bạc Liêu, là do tấm bằng cử nhân có xuất xứ từ “Đại học Bạc Liêu”. “Nghe “Đại học Bạc Liêu”, nhiều cơ quan tỏ ra không còn mặn mà gì với việc xem xét hồ sơ. Thậm chí, có một số cơ quan như Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng NN&PTNT… đã loại ngay từ vòng… nộp hồ sơ”- bài báo viết.
Các cơ quan công quyền ở Bạc Liêu, kỳ thị con em Bạc Liêu, chỉ vì họ tốt nghiệp đại học Bạc Liêu. Đúng là chuyện chỉ có ở Bạc Liêu.
Nhưng đó không chỉ là chuyện ở Bạc Liêu. Còn nhớ trong một hội nghị về công tác nhân tài, PGS-TS Đỗ Minh Cương, Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuộc Ban Tổ chức trung ương đã nói ra một sự thật: “Giả thiết nếu Bill Gates có làm việc trong hệ thống chính trị nước ta thì đến già cũng không lên được trưởng phòng…”.
Những cử nhân “Chính gốc Bạc Liêu” hẳn sẽ ngậm ngùi lắm khi hôm qua, họ đọc trên báo dòng tin về chính sách trải thảm đỏ của tỉnh nhà. Sau Quảng Ngãi, Bạc Liêu đã đưa ra những con số khủng để “thu hút nhân tài”. Ừ thì giáo sư được hỗ trợ 500 triệu khi ok về công tác tại Bạc Liêu. Ừ thì bác sĩ, dược sĩ, thạc sĩ được “trăm bảy đến hai trăm hai”. Ừ thì học hàm học vị. Ừ thì trọng nhân tài. Nhưng còn những cử nhân bản địa với ước mơ lãng mạn đóng góp xây dựng quê nhà?
Liệu có chính sách thu hút nhân tài nào chỉ nhăm nhăm nhìn vào sự sang trọng của học hàm học vị, thậm chí, dựa trên xuất xứ của một tấm bằng?
Liệu có sự thành công nào có được bằng việc vọng ngoại, và kỳ thị nguồn nhân lực bản địa đang ế chỏng ế trơ?
Trong cuộc gặp Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết năm 2008, Tổng thống Lý Quang Diệu, người đã biến Singapore thành một nơi “quần hào tụ hội” đã chân thành, rằng: Quan trọng là không để trì trệ nằm trong dòng chảy của mình.
Hình như chính sách trải thảm ở Quảng Ngãi, ở Bạc Liêu phải được bắt đầu bằng việc dẹp bỏ sự trì trệ trong tư duy những người làm công tác cán bộ.
Phan Chu Trinh: Mười điều bi ai của Dân Tộc Việt Nam
Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013
Phụ nữ Tày duyên dáng sắc màu chàm
(Copy từ http://tamhoc.com/2013/03/phu-nu-tay-duyen-dang-sac-mau-cham/,đăng ngày 11/03/13,mục phong tục tập quán, người đưa lên:nhanha -theo tapchilangviet)
Phụ nữ Tày duyên dáng sắc màu chàm
Sinh sống ở hầu khắp các tỉnh miền núi phía Bắc như Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai…đồng bào dân tộc Tày đã tạo cho mình một bản sắc riêng. Qua những nét văn hóa như ẩm thực, trò chơi dân gian, ngôn ngữ…đồng bào Tày đã có một kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Đặc biệt, trang phục của người phụ nữ Tày từ lâu đã trở thành biểu tượng văn hóa cũng như nét đẹp bình dị và độc đáo của dân tộc Tày ở khắp các vùng miền.
Đã trở thành truyền thống, người phụ nữ Tày ở hầu khắp các tỉnh đều rất coi trọng trang phục. Từ khi trở thành một thiếu nữ cho đến khi cao tuổi, bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình luôn đi liền với người phụ nữ. Trang phục truyền thống của phụ nữ Tày được thể hiện từ khăn vấn đầu cho đến yếm trên ngực, vòng đeo cổ và tà áo cũng như váy
Khăn vấn đầu
Khăn vấn đầu của người phụ nữ Tày được làm thành một vòng tròn vừa với đỉnh đầu. Chất liệu của khăn khi xưa được làm bằng vải lụa nhuộm chàm, nhưng hiện nay, khăn được khâu bằng vải nhung tạo nên độ mềm, mượt và được độn bằng bông ở giữa. Như thế, người phụ nữ Tày búi tóc ra sau rồi đội khăn lên giữa đầu. Khăn vấn đầu có cài thêm những họa tiết như là những ngôi sao nhỏ có nhiều màu tạo cho khăn thêm rực rỡ và lấp lánh hơn. Nhiều thiếu nữ còn thêm vào một bên khăn một chùm tua rua được kết bởi những sợi chỉ nhiều màu. Ngoài vòng khăn tròn, người phụ nữ Tày còn đội khăn vuông. Khăn phụ nữ Tày là loại khăn vuông màu chàm khi đội gập chéo giống kiểu mỏ quạ của người Kinh.
Yếm ngực
Yếm ngực của phụ nữ Tày được may bằng mảnh vải trắng hoặc vải xanh tươi tùy theo độ tuổi. Yếm được may theo hình quả trám có đỉnh nhọn nhô lên ở giữa ngực chạm đến cổ để tạo nên sự kín đáo của cơ thể người phụ nữ. Yếm có 4 dây, hai dây trên buộc vào sau cổ, hai dây dưới buộc vòng sau lưng tạo sự cân đối, chắc chắn.
Quần áo
Bộ áo của phụ nữ Tày ở các tỉnh vùng cao gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy (chân váy). Áo cánh là loại 4 thân xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi nhỏ phía dưới hai vạt trước, thường được cắt may bằng vải chàm hoặc trắng hay màu xanh sậm tùy thuộc vào độ tuổi của người phụ nữ Tày. Trên thân áo có trang trí những đường thổ cẩm nhỏ dọc theo đường cúc áo trước ngực hoặc ở khe xẻ tà hai bên và đầu cổ tay tạo cho tấm áo thêm rực rỡ trên nền chàm.
Áo dài là bộ trang phục truyền thống cũng là loại áo 5 thân, xẻ nách phải cài cúc vải hoặc đồng, cổ tròn ống tay và thân hẹp có eo. Trước đây, áo dài của phụ nữ Tày thường được may bằng vải nhuộm chàm. Hiện nay, được may cải tiến bằng vải nhung mềm mại, ấm và bóng đẹp hơn. Ở giữa eo, người ta thiết kế thắt lưng bằng vải màu xanh tươi tạo sự cân đối cho áo và cơ thể đồng thời tạo sự nổi bật của màu xanh trên nền chàm.
Trang sức
Tôn lên vẻ đẹp của váy, áo của phụ nữ Tày còn nhờ vào sự độc đáo của những bộ trang sức. Trang sức phụ nữ Tày đơn giản song có đủ các chủng loại cơ bản như vòng cổ, vòng tay, vòng chân, xà tích… Có nơi còn đeo túi vải, túi đựng trầu bên hông. Quan trọng nhất là vòng cổ của người phụ nữ. Đó là một chiếc vòng bạc trắng to được đeo ở cổ, vòng rộng xuống 1/4 ngực làm cho cơ thể cân đối và màu trắng của vòng bạc nổi bật trên nền chàm.
Cái độc đáo đáng quan tâm của trang phục Tày là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn gia công trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc được dùng trong hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm.
Hài
Hài của phụ nữ Tày cũng đồng nhất màu với áo và váy. Trước kia giày được khâu bằng vải nhuộm chàm nhưng hiện nay được khâu bằng vải nhung có thêu lên hoa văn, đường thổ cẩm nhỏ và những ngôi sao nhỏ nhiều màu.
Trang phục truyền thống đã in sâu vào trong lối sống của người phụ nữ Tày. Dù cuộc sống hiện đại nhưng người phụ nữ sinh ra và lớn lên trong mỗi bản Tày phải may cho mình một bộ trang phục cổ truyền. Nhất là khi thiếu nữ Tày trưởng thành đi lấy chồng thì một bộ trang phục gồm khăn, vòng, giày và váy áo được cô gái tự tay chọn vải, thêu thùa, trang trí hoàn chỉnh.
Hiện nay, người phụ nữ Tày ở các địa phương vẫn giữ được nét riêng trong trang phục truyền thống của dân tộc mình. Hằng ngày, trang phục của họ chủ yếu là khăn vuông mỏ quạ, áo và váy ngắn màu chàm quá đầu gối. Còn áo dài là dành cho những ngày hội, lễ tết, cưới xin và những dịp sinh hoạt văn hóa như thi ẩm thực, hát then, lễ mừng cơm mới…
Người phụ nữ Tày luôn duyên dáng, dịu dàng và đẹp trong sắc màu chàm.
Theo tapchilangviet
Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013
Lợi ích nhóm qua kiến nghị đánh thuế tiền gửi
Copy từ http://sgtt.vn/Goc-nhin/175390/Loi-ich-nhom-qua-kien-nghi-danh-thue-tien-gui.html; đăng ngày 04/03/13, mục Góc nhìn. |
SGTT.VN - Cả về phương diện lý thuyết kinh tế học cũng như thực tiễn Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đều cho thấy kiến nghị đánh thuế tiền gửi là để “cho vui” hoặc “gây sự chú ý kiểu showbiz Việt”, trong bối cảnh doanh nghiệp đang phải vật lộn để tồn tại còn người dân thì chưa nhấm nháp hết dư vị của “một năm kinh tế buồn”. Nhưng ở một góc độ khác, nó thể hiện hành vi không biết đâu là giới hạn của nhóm lợi ích. |
Nhà kinh tế hàng đầu của chủ nghĩa tự do Pháp thế kỷ 19, Frédéric Bastiat (1801 – 1850), từng kể một câu chuyện ngụ ngôn được hậu thế trích dẫn rất nhiều. Đó là câu chuyện “Hiệp hội những người sản xuất nến” đã thỉnh cầu chính quyền thực thi chính sách hỗ trợ cho công việc kinh doanh của họ. Trong bản thỉnh cầu, họ tố cáo mặt trời chính là kẻ cạnh tranh lạnh lùng nhất đối với họ. Vì thế, họ mong chính quyền ra một sắc lệnh cấm mọi thần dân mở cửa sổ vào ban ngày. Nhờ thế, không chỉ ngành sản xuất nến của họ sẽ phát triển bền vững, mà cả những ngành cung cấp nguyên liệu cũng nhận được ảnh hưởng lan toả, và nhờ thế làm xã hội thịnh vượng hơn! |
Trong đời sống hiện đại, câu chuyện của Bastiat, tiếc thay, không có vẻ gì là hoang đường. Nó phản ánh đặc điểm của các nhóm lợi ích ngay từ những buổi đầu sơ khai của kinh tế thị trường: nguỵ biện, tham lam, mù quáng và tàn nhẫn. |
Nguỵ biện vì các đề xuất chính sách đều được bao bọc bằng những lập luận hoa mỹ về phúc lợi chung. Tham lam vì nó mong muốn giành được quyền lợi cho bản thân bất chấp mọi giới hạn. Mù quáng vì nó không đếm xỉa gì đến lợi ích của người khác. Và cuối cùng, nó tàn nhẫn vì bóc lột không thương tiếc những nhóm người yếu thế và đông đảo. |
Hiệp hội Bất động sản TP.HCM hiện cũng đang theo đuổi một bản thỉnh cầu thống thiết lên Chính phủ có lẽ cũng không khác gì những người bán nến năm xưa đã làm ở Paris. |
Thực ra, những ý tưởng kiểu này không còn là của hiếm trong xã hội Việt Nam bây giờ. Nó chỉ một lần nữa khiến chúng ta phải suy nghĩ nhiều hơn về sự hoành hành của các nhóm lợi ích. Đây chỉ là một kiến nghị đã được đưa ra công khai để người dân thấy được tính châm biếm và thiển cận của nó. Còn bao nhiêu kiến nghị như vậy nhưng không được công khai, và đã âm thầm đi vào cuộc sống, dưới cái vỏ mỹ miều đầy bao dung về phúc lợi chung? |
Lợi ích nhóm là thực tế không thể phủ nhận trong kinh tế thị trường, trong xã hội hiện đại. Xã hội càng phát triển, càng phong phú và phức tạp, thì những khía cạnh của cuộc sống càng đa dạng và sống động. Do đó, các nhóm lợi ích hình thành để bảo vệ quyền lợi đa dạng nảy sinh từ các khía cạnh khác nhau của cuộc sống là một điều bình thường, chính đáng. Nhưng để xã hội hài hoà và công bằng, các nhóm cần được phát triển cân đối và bình đẳng. Nếu hiệp hội ngân hàng có thể họp lại với nhau để quyết định hạ lãi suất tiền gửi, thì cần phải có hiệp hội những người gửi tiền lên tiếng về việc này. Nếu hiệp hội bất động sản kiến nghị đánh thuế vào lãi suất tiền gửi, thì hiệp hội những người gửi tiền cần lên tiếng, hoặc hiệp hội những người mua nhà có thể kiến nghị về một chính sách thuế đánh vào những căn hộ đang bị để hoang phí vì đầu cơ. |
Xét cho cùng, vấn đề không phải các nhóm lợi ích mong muốn như thế nào, mà vấn đề là kiểm soát những mong muốn của họ ra sao. Cách kiểm soát hữu hiệu, theo nguyên lý cơ bản của cơ chế thị trường, là để các nhóm đối kháng về lợi ích tự kiểm soát lẫn nhau |
Xét cho cùng, vấn đề không phải các nhóm lợi ích mong muốn như thế nào, mà vấn đề là kiểm soát những mong muốn của họ ra sao. Cách kiểm soát hữu hiệu, theo nguyên lý cơ bản của cơ chế thị trường, là để các nhóm đối kháng về lợi ích tự kiểm soát lẫn nhau. |
Chừng nào chúng ta chưa thừa nhận vai trò quan trọng của việc tập hợp các nhóm xã hội, của những tổ chức có tiếng nói độc lập đại diện cho các lợi ích khác nhau, thì xã hội sẽ tiếp tục chịu đựng sự nhào nặn méo mó vì sự hoành hành, thao túng của các nhóm lợi ích đã tự cấu kết, hình thành từ trước. Những nhóm ấy, hiện nay chủ yếu chỉ đại diện cho các khối doanh nghiệp, mà chưa đại diện cho lợi ích của người dân, cộng đồng và các nhóm xã hội khác. |
Chúng ta đang thảo luận về sửa đổi Hiến pháp cho một nước Việt Nam tốt đẹp hơn, thì hơn bao giờ hết, rất cần lưu tâm về việc xây dựng những cơ chế thực sự vun đắp một nền dân chủ, cho phép tập hợp các nhóm xã hội được sinh sôi chứ không phải bị nghi ngờ, các nhóm xã hội vẫn được lên tiếng một cách bình đẳng và cạnh tranh, chứ không phải bị chèn ép, méo mó theo lá phiếu của đồng tiền. |
TS Nguyễn Đức Thành, giám đốc VEPR |
Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013
Giẫm đạp cướp chiếu ở lễ 'đúc Bụt'
Giẫm đạp cướp chiếu ở lễ 'đúc Bụt'
Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013
Lịch sử bị cải biên
Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2013
Cảnh sát giao thông bị quay phim tống tiền
Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013
Mai Phương Thúy va Dương Tú Anh
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)