Thứ Hai, 5 tháng 9, 2016

Suy nghĩ Mãn Thanh-1

.
Suy nghĩ Mãn Thanh-1
Copy từ http://www.talachu.org/truyen.php?bai=186; tác giả là Trần Vũ đưa lên mạng ngày 13-01-2008. Ở blog này tôi chia thành 2 bài ngắn, đây là bài 1.
Vào đầu tập nghiên cứu Giới thiệu lịch sử những quan hệ quốc tế, sử gia Pierre Renouvin định nghĩa các yếu tố làm thay đổi cục diện thế giới: “Điều kiện địa lý, các chuyển động nhân khẩu, lợi nhuận kinh tế tài chánh, tâm lý chung của tập thể, những trào lưu suy nghĩ, làm thành những lực ngầm tạo hình mối tương quan giữa các cộng đồng nhân loại, và chính một phần lớn các lực này đặt để tính chất thế giới.” [1] Phát kiến những lực ngầm của Renouvin không mới đối với các dân tộc châu Á thường xuyên viện dẫn các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà, nhằm giải thích những thành bại của thiên tử, quốc gia, dân tộc. Cách nhìn của Renouvin, tuy vậy, vào đầu thập niên 60 đã khác biệt cách viết sử của phương Tây cuối thế kỷ 19. Với Renouvin, nguyên nhân thăng trầm không duy nhất nằm trong trách nhiệm của các quân vương hay các triều đình tham chiến, mà còn ở chính bản chất của các dân tộc lâm chiến. Dấu nhấn này, đặt trọng tâm vào yếu tố nhân hoà.
Bàn về phẩm chất của người Việt, không thiếu tài liệu của giới chức Pháp tại Đông Dương:
“Ít nhất 4/5 dân số Đông Dương thuộc về chủng tộc Kinh mà hầu như biên giới của Đông Dương thuộc Pháp hiện nay không khác mấy so với biên cương lãnh thổ của đế quốc An Nam vào thời kỳ hoàng kim. Đế quốc này bao gộp An Nam (Trung bộ), Tonkin (Bắc bộ), Cochinchine (Nam bộ). Vua Cao Mên phải nộp cống vì là thuộc quốc. Duy nhất, vương quốc Ai Lao có vẻ chưa hoàn toàn bị chiếm đóng. Chúng ta không rõ gốc gác của dân An Nam, dường như đến từ Mã Lai, cách đây nhiều thế kỷ, sau khi đã khuất phục hay tiêu diệt các sắc tộc khác trên bán đảo này. (...) Người An Nam, không thể chối cãi, vượt trội các sắc dân láng giềng. Dân Cao Mên, Ai Lao, Xiêm La không đủ sức kháng cự lại họ. Không có bất kỳ quốc gia nào trong khối kết hợp thành Ấn Độ có được phẩm chất của sắc dân này. Phải đi đến tận Nhật Bản mới tìm thấy một chủng tộc tương xứng và giống như vậy. An Nam và Nhật Bản chắc chắn phải có một sự liên hệ huyết thống cổ xưa. Cả hai đều thông minh, siêng năng và can đảm. Người An Nam mang bản chất của lính thiện chiến, tuân phục, dũng mãnh. Là một sắc dân lao động kiểu mẫu, nông dân tháo vác ở đồng ruộng, thợ giỏi, và thủ công nghệ sáng tạo trong thành phố. Sắc dân An Nam vượt trội trên phương diện chiến đấu, cũng như trong kỹ năng công nhân, so với bất kỳ dân tộc nào ở châu Á mà chúng ta có thể so sánh. Đây cũng là quy luật chung, mà tôi đã khảo sát và kiểm nghiệm trên 20 sắc tộc khác nhau của nhân loại, một quy luật mà chúng ta cũng có thể kiểm tra tính chính xác tại châu Âu: Những con người làm việc giỏi, là những người lính giỏi. Một cách khác, lòng can đảm là một. Nếu con người này can đảm không từ nan công việc trước cực nhọc lao động, con người đó, sẽ can đảm trước hiểm nguy và không từ nan cái chết.” [2]
(Toàn quyền Paul Doumer, L’Indochine française, Souvenirs, 1905)
“Dân An Nam cần kiệm, chuyên cần, rất gắn bó với gia đình, đất đai, đồng áng ― thông thường hiền hoà, thậm chí nhút nhát như bầy trâu của họ ― nhưng lại cực kỳ can đảm và khinh bỉ cái chết, mà trước thần chết đã luôn tiến thẳng tới không yếu đuối. Cho đến lúc này, chúng ta đã có thể kiểm nghiệm thái độ chiến đấu của sắc dân này qua các cuộc hành binh quân sự, và ngay cả thái độ trung thành dưới lá cờ của chúng ta. (…) Không biết hôn, vì nam phụ lão ấu luôn ngậm một bã trầu trong miệng, điều này không ngăn họ hút thuốc cùng lúc. Tuy ưa ca hát, dân An Nam không nhảy múa, các đoàn múa đều là người Khmer. Sắc dân này ít chịu ảnh hưởng văn hoá của những vùng đất thu phục. (…) Trước khi chúng ta đến, An Nam không xuất khẩu thóc lúa hay trao đổi phẩm vật với các xứ trong vùng. Họ tự túc làm ra của cải, không thiếu ăn, nhưng không đủ tàng trữ kho tàng, lý do thiếu một nền hành chánh hiệu quả, tuy rất thống nhất, không khai thác hết tài nguyên của các xứ đã sáp nhập hay phối thuộc.” [3]
(Toàn quyền Jean Louis de Lanessan, L’Indo-Chine Française, 1889)
“Sự pha trộn giữa các chủng tộc Mã Lai, Ấn, Hoa, với Mường tạo ra sắc An Nam, vừa giữ làn da sáng của giống vàng Trung Hoa, vừa giữ thể hình xương, nhanh nhẹn, thích ứng với rừng rậm. Từ Gia Định ra đến Hạ Long, chúng ta gặp thuần một giống dân. Những người tự nhận là Champa với chúng ta, đến ghi danh trong các văn phòng tuyển mộ phu, thường lảng tránh khi người An Nam xuất hiện. Không còn vết tích của cuộc tàn sát, nhưng vẫn còn sự khinh khi. Khá cứng đầu, An Nam luôn tìm cách tử chiến, ngay cả sau khi thương thuyết đầu hàng, vẫn cứ tiếp tục tử chiến. (...) Khác các sắc tộc đã bị tiêu diệt, hoặc Hồi giáo, hoặc vô thần, hoặc thờ súc vật, Bà-La-Môn hay thờ Shiva mà nhiều tượng được tìm thấy ở Bình Định, dân An Nam theo các tôn giáo Nhơn đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo và Khổng thái công [4] là những triết lý trừu tượng khác hẳn. (...) Nền độc lập mong manh của Xiêm La từng bị An Nam uy hiếp, dường như nội loạn của Lê Văn Khôi đã cho Xiêm La thêm thời gian. May mắn chúng ta đã đến kịp lúc. Xứ Miến Điện thoát hiểm nhờ vào địa thế cách trở mà đây cũng là yếu kém của An Nam, quá ít đường sá trong đế quốc của họ.” [5]
(Tổng trú sứ Trung kỳ Paul Bihourd, Carnets de voyage, 1887)
“Tại trường sĩ quan lục quân Coetquidan, các tân khoá sinh học phương pháp đoạn hậu khi triệt thoái. Chiến thuật được giảng dạy sáng sủa, rõ rệt: Lập nút chặn, đợi địch, khai hoả khi đối phương xuất hiện. Đối phương sẽ ngừng lại, dọ dẫm, thận trọng quan sát, đơn vị đoạn hậu sẽ đủ thời gian rút lui, bắt kịp đơn vị đi trước đã làm xong tuyến cản. Chiến thuật bước chân chim là như vậy. Thực tế chiến trường khác hẳn. Ngay khi chúng ta khai hoả, thay vì ngừng lại, Việt Minh xông thẳng tới, bất chấp thiệt hại, áp sát để cận chiến bằng lưỡi lê. Hầu hết các chiến thuật trang bị cho tân sĩ quan sang Đông Dương đều phá sản.” [6]
(Trung uý Bertrand, trưởng đồn Yên Châu, Trung du Bắc Việt, Journal de Marche, 1952)
Nửa thế kỷ sau sự hiện diện của quân đội Pháp, đọc lại những trang hồi ký cũ, dân Việt không tự mãn, nhưng tự tra vấn: Vì đâu với nguyên liệu dân tộc tinh hảo như vậy, triều đình Huế đã đánh mất nền độc lập quốc gia? Đến đây, ưu điểm của Pierre Renouvin, đã xem nhẹ phương tiện chiến tranh mà đặt trọng tâm vào yếu tố nhân hoà , phần nào giải thích: Chính khả năng canh tân yếu kém của vương triều Nguyễn do không cải tổ nền tảng chính trị xưa cũ, đã không còn thích ứng, do vậy, đã không thể kết hợp và huy động sức mạnh của dân An Nam.
Quan bố chánh Eliacin Luro, như dân địa phương vẫn tiếp tục gọi bằng phẩm ngạch của triều đình Huế, trong thực tế giữ chức administrateur civil của các trấn An Giang rồi Vĩnh Long, đưa ra nhận xét: “Xã tắc An Nam do chiến thắng các cuộc xâm lược, không chịu ảnh hưởng của những thay đổi cơ cấu về sau của triều Mãn Thanh, nên đã giữ nguyên hình thái tổ chức cổ xưa đã hoàn toàn biến mất tại Trung Hoa” [7] . Nhận định của Luro đúng trên các mặt khoa cử, thuế khoá, thương mãi và binh bị, không thật đúng về sự khác biệt thể chế chính trị giữa Mãn Thanh và triều Nguyễn. Tuy nhiên, Luro đã sớm nhận ra chính tính cách quá cũ kĩ của mô thức triều chính và hành chính nhà Nguyễn, xây dựng trên khuôn mẫu nhà Lê mà những cải cách cuối cùng có từ thời Hồ Quý Ly, đã không cho phép Đại Nam phát triển tỷ lệ thuận với tiềm lực của 25 triệu dân sinh sống trên bán đảo Trung - Ấn.
Trước khi theo Renouvin sang Trung Hoa tìm hiểu nguyên nhân thất bại của Mãn Thanh trong công cuộc canh tân đế quốc, chúng ta có thể lượng giá phần nào những thẩm định của các quan toàn quyền về phẩm chất Việt.
Hầu hết quá chú tâm vào khả năng chiến đấu của dân tộc mà không nhìn thấy khác biệt căn bản giữa dân Việt với các sắc dân lân bang. Nếu người Hoa coi trọng kinh tế, xem trao đổi thương mãi đồng nghĩa sống còn, đối với dân Việt chính đất đai mới mang ý nghĩa sống còn. Bán đất đã luôn được xem là một thất thế. Khi Lanessan đánh giá dân An Nam “nhút nhát như bầy trâu của họ”, hoặc Doumer nghĩ Việt và Nhật liên hệ huyết thống, do vậy tương đồng trong phẩm hạnh và cách ứng xử, cả hai nhận định đều quá vội vã. Việt không nhút nhát, nhưng chọn tình thế để biểu cảm thái độ. Khác hẳn Nhật Bản xem thường cái chết, Việt coi trọng cái chết. Nếu tinh thần võ sĩ đạo đề cao danh dự trên hết, trong mọi tình huống, ngay cả những xúc phạm nhỏ nhặt nhất vẫn có thể dẫn đến cái chết để rửa nhục; Việt cụ thể hoá danh dự qua đất đai, mà chỉ trong trường hợp này, cái chết mới được xem xứng đáng. Không “khinh bỉ cái chết” như Lanessan lầm lẫn, mà đồng hoá danh dự với đất đai, là khác biệt lớn giữa Việt Nam và Nhật Bản. Một thành tố khác mà các tổng trú sứ hoặc toàn quyền ít nhận ra: Không phải đức Phật Thích Ca mà chính tục thờ cúng tổ tiên, gia tộc đã chết, đặc biệt các tướng lĩnh và những kẻ chết trận, mới thật sự là quốc giáo làm nên sức mạnh của dân tộc này. Từ thiên tử xuống đến quan rồi thứ dân, không có biệt lệ. Đền thờ Sầm Nghi Đống, thờ kẻ cựu thù, vẫn khói nhang là một bằng chứng khuyến khích gương anh dũng và tiết tháo hy sinh trong chiến đấu. Sắc lệnh cấm đạo của hoàng đế Tự Đức, ban hành vào tháng 4 năm 1848, mở đầu bằng lời phán xét nghiệt ngã: “Đạo Gia-Tô bị các tiên đế Minh Mệnh và Thiệu Trị phế chỉ, hiển nhiên là một tôn giáo sa đoạ, vì đạo ấy không cúng thờ tổ tiên khuất mặt” [8] . Nhắc đến tổ tiên là nhắc đến công lao giữ đất, mở mang bờ cõi. Đạo dụ của Tự Đức nói lên tầm quan trọng của một quốc giáo sùng bái công lao này.
Một tổng trú sứ khác, Paul Bihourd ghi nhận các sắc tộc thiểu số bị kỳ thị. Không hẳn. Không phải dân Việt gay gắt vấn đề dị chủng, mà vì thang điểm giá trị của dân tộc xây dựng trên thước đo khả năng chinh chiến và kháng cự. Chấp nhận điều kiện của đối phương để chung sống hoà bình thường bị xem là hèn. Đây là lý do vì sao dân Việt xem trọng đất đai. Vì đã đổ quá nhiều máu để gìn giữ, rồi mở rộng. Vì không hèn, nên không nhượng đất. Vì không hèn, nên sẵn sàng tiếp chiến khi bị khiêu chiến. Đất đai đã trở thành danh dự, vì là chứng nhân và kết quả của lòng can đảm.
Thước đo giá trị trên cùng lúc giải thích vì sao dân Việt ít theo đạo Bà-La-Môn của Phù Nam, Shiva của Lâm Ấp, Hồi giáo của Chàm hay Ấn Độ giáo của Khmer, tuy Việt cũng theo Phật giáo như một bộ phận Khmer, nhưng là Phật giáo đến từ Trung Hoa chứ không từ Thuỷ Chân Lạp. Bản sắc Việt không cho phép yếu đuối, không chấp nhận đớn hèn. Chính bản sắc này đã khiến quân đoàn viễn chinh Đông Dương khó khăn bình định Đại Nam, trong lúc Cao Mên và Ai Lao quy hàng tức khắc. Nhưng kể từ thế kỷ 19, bản sắc chiến đấu không đủ để canh tân đất nước. Trong quan niệm nhân hoà của châu Á, hai yếu tố minh quân và thuận lòng dân mới thực sự quan trọng.
Trong tập nghiên cứu Câu hỏi Viễn Đông [9] , Pierre Renouvin phân tích các nguyên nhân suy vi của đế quốc Trung Hoa so với Nhật Bản, trong suốt một thế kỷ trải dài từ 1840 đến 1940.
Nếu đế chế Mãn Thanh đã mở rộng tột bực biên cương, Nhật Bản hãy còn là một đảo quốc, nhưng cả hai đều nhận thức mối đe doạ đến từ Tây Âu. Mãn Thanh và Nhật ý thức phải xây dựng tức khắc một hạm đội viễn dương để tự phòng thủ và xâm lấn các phần đất còn lại ở châu Á. Giống nhau đến đây chấm dứt.
Với sử gia Tây phương, hiệu năng thuế khoá là điều kiện tất yếu để phát triển và duy trì phát triển. Củng cố ngân sách trở nên vấn đề sống chết của ba quốc gia Mãn Thanh, Đại Nam và Nhật Bản, cùng vừa thoát ra khỏi nội chiến thảm khốc Mãn Thanh - Thái Bình Thiên Quốc, Nguyễn Phúc Ánh - Tây Sơn, và loạn sứ quân. Cả ba quốc gia cùng đối diện nguy cơ xâm lăng của phương Tây với kho tàng trống rỗng. Nếu Mãn Thanh và Nhật Bản đã nghĩ đến canh tân, đã theo những con đường khác nhau, Đại Nam hoàn toàn thụ động. Khước từ điều trần cải cách của Nguyễn Trường Tộ, cầu viện nhà Thanh, chọn lựa của hoàng đế Tự Đức tồi tệ hơn hết.
Không quan tâm nhiều đến Đại Nam, Pierre Renouvin nhấn mạnh: Nguyên nhân dẫn đến sự suy vi của Mãn Thanh nằm trong khả năng thâu thuế yếu kém của triều đình Từ Hi. Không phải thái hậu đã không cải tổ. Từ Hi, được đánh giá quyết đoán, thông minh, tinh nhạy, tuy tàn ác, đã tiến hành một loạt các biện pháp cải cách: Phân loại nông phẩm, sản vật, tài nguyên chiến lược để phân giá thuế, đặc miễn hay lập các siêu ngạch nhằm khuyến khích sản xuất hoặc bảo vệ thị trường là những biện pháp khá mới mẻ ở thời kỳ này tại châu Á.
Từ Hi thái hậu (1835-1908). Nguồn: Wikipedia
Thái hậu nhìn thấy sự tụt hậu của nhà Thanh, nhìn thấy nguy cơ xâm lược của phương Tây, cần gấp một lượng tiền lớn để công nghiệp hóa và hiện đại hóa quân đội. Giấc mộng của Từ Hi tan vỡ vì không tập trung được tài, vật, lực của 350 triệu dân Trung Hoa sinh sống trên lục địa. Thất bại thuế khoá đưa đến thiếu hụt ngân sách, khiến hạm đội Bắc Dương phải mua các tàu cũ của Áo, Phổ, sẽ thảm bại thê thảm trước hạm đội Pháp và Nhật Bản về sau tại Phúc Châu và tại quần đảo Bành Hồ trên biển Hoàng Hải.
Chính sách thuế khóa của Từ Hi được xem cấp tiến nhưng vẫn thất bại vì thái hậu đã không cải tổ cơ chế chính trị, mà trên mặt lý thuyết tuy phong kiến tập quyền nhưng trong thực tế phân vùng dưới sự cai quản của các đại nguyên soái đã được các tiên đế Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh ban phẩm trạch từ mấy đời. Các đại gia tộc của các nguyên soái cha truyền con nối chia nhau cát cứ từng địa phương khiến tiền thuế của dân Trung Hoa đã không về đến ngân khố Bắc Kinh. Pierre Renouvin không khảo sát cơ chế Đại Nam, nhưng dân Việt vẫn có thể tìm thấy trong hồi ký Đông Dương [10] của toàn quyền Paul Doumer, một hình ảnh khá tương đồng: Các quan tổng đốc, tuần vũ trách nhiệm thâu thuế, đã trực tiếp cắt giảm kinh phí của tỉnh, cắt giảm cả những “quốc phí” dành riêng cho bản thân, dòng họ, gia đình, trước khi chuyển về Huế.
Những quan Kinh lược, Khâm sai, Án sát làm công việc thanh tra đã tự khấu trừ thêm một phần nữa, khiến ngày Paul Doumer sang trấn nhậm Đông Dương, triều đình của vua Thành Thái đã sống trong sự bần cùng, ngân quỹ chỉ đủ tu bổ lăng tẩm, dinh thự, cung điện mà không đủ sắm sửa binh bị hay cải tạo kênh đào, cầu cống, mở mang đường xá. Paul Doumer đã thực hiện một loạt cải cách: Viện Cơ mật bị thay thế bởi Hội đồng Bảo hộ (Conseil du Protectorat) ở Trung - Bắc kỳ và Hội đồng Thuộc địa (Conseil Colonial) ở Nam kỳ, toàn thể nền hành chánh Đại Nam nằm dưới quyền kiểm soát của các trú sứ (Résident Supérieur), tổng trú sứ (Résident général), tổng uỷ viên (Commissaire général) hay phó toàn quyền (Lieutenant gouverneur). Các chức quan Kinh lược (Vice Roy), Khâm sai (Commissaire) bị bãi bỏ, các chức Tổng đốc (tư lệnh miền), Án sát (thanh tra/ thẩm phán), Lãnh binh (quân trấn) chỉ còn là hư danh. Kể từ lúc này hoàng đế Thành Thái chỉ còn là một vị hoàng đế lãnh lương tháng cho chức vị thiên tử.
Các chú thích trong bài 1:
[1]Pierre Renouvin & Jean-Baptiste Duroselle, Introduction à l’histoire des relations internationales, nxb Armand Colin, 1964
[2]Paul Doumer, L’Indochine française, Souvenirs, nxb Librairie Vuibert, 1905, tái bản 1930
[3]Marie Antoine Jean Louis de Lanessan, L’Indo-Chine Française, Etude politique, économique, et administrative sur la Cochinchine, le Cambodge, l’Annam et le Tonkin, nxb Ancienne Librairie Germer Baillière et Cie, 1889
[4]Nguyên văn ghi trong bản Pháp văn: "Nhon-Dao, Thanh-Dao, Tien-Dao, Phat-Dao, Kdnong-Thai-Coug"
[5]Paul Bihourd, Carnets de voyage, Imprimerie nationale, 1887
[6]Đại tá Bertrand, "Nhật ký hành quân của tiểu đoàn 3 trung đoàn 1 Tán Binh Marốc" (1er Régiment de Tirailleurs Marocains), Revue Militaire, Jacques Favreau & Nicolas Dufour trích dẫn trong nghiên cứu Nà Sản la victoire oubliée 1952-1953, Base aéroterrestre au Tonkin, nxb Economica, 1999
[7]Eliacin Luro, Le Pays d’Annam, Etude sur l’organisation politique et sociale des Annamites, nxb Leroux,1878
[8]Philippe Devillers, Français et Annamites, Partenaires ou Ennemis? 1856-1902, nxb Editions Denoel, 1998
[9]Pierre Renouvin, La question d’Extrême-Orient 1840-1940, nxb Librairie Hachette, 1947
[10]Paul Doumer, sđd
Hết bài 1
Xin mời xem tiếp bài 2 tại đây;

Không có nhận xét nào: